Đổi mới văn hóa ở Việt Nam

PGS, TS. Phạm Duy Đức Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
23:49, ngày 17-03-2014
TCCSĐT - Có thể nói những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa gần 30 năm đổi mới vừa qua cần phải khẳng định và rất đáng tự hào. Đây là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp; của cả hệ thống chính trị đã kiên trì phấn đấu liên tục và bền bỉ.

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được đánh dấu từ Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đến nay đã gần 30 năm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đến an ninh - quốc phòng và đối ngoại đã đạt dược những thành tựu quan trọng. Trong quá trình đổi mới đó, đổi mới về văn hóa đã tạo nên sức sống mới, diện mạo mới của văn hóa Việt Nam.

Quan điểm đổi mới văn hóa ở Việt Nam thời gian qua được thể hiện tập trung ở Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991); Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội, các nghị quyết của Hội nghị Trung ương, của Bộ Chính trị về lĩnh vực văn hóa, văn nghệ từ Đại hội VI đến Đại hội XI. Thành tựu đổi mới tư duy lý luận của Đảng về văn hóa là điều kiện và động lực có ý nghĩa quyết định tới việc tổ chức thực hiện đổi mới các lĩnh vực hoạt động văn hóa trong thực tiễn, góp phần tạo nên sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong suốt thời gian qua và được thể hiện tập trung ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, đổi mới nhận thức về các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của văn hóa. Đảng ta đã có nhận thức một cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc hơn về các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của văn hóa liên quan chặt chẽ đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Đó là các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống nhằm hướng tới xây dựng và phát triển con người; lĩnh vực giáo dục, khoa học; lĩnh vực văn học nghệ thuật; lĩnh vực thông tin đại chúng; lĩnh vực bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; xây dựng thể chế và thiết chế văn hóa… Trong các lĩnh vực này, lĩnh vực xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát triển con người được coi là nhiệm vụ trọng tâm. Nội dung này đã dần khắc phục được sự phiến diện, thiên lệch hoặc tầm nhìn hạn hẹp khi xác định vai trò của văn hóa trong phát triển.

Thứ hai, đổi mới nhận thức về vai trò và chức năng xã hội của văn hóa. Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”(1) và “trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(2). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh: chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm vào mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần mà còn có chức năng kinh tế, là nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, đổi mới nhận thức về mô hình, đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam cần xây dựng. Đảng ta đã xác định mô hình đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam hiện nay mà nhân dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là sự thống nhất giữa trình độ tiên tiến của nền văn hóa với tính chất dân tộc, bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước, là tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa các cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên,… Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đồng thời, Đảng ta cũng nhấn mạnh: bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác; giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.

Thứ tư, đổi mới tư duy về tính chất thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định: nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Năm mươi tư dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị về sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái văn hóa đó thống nhất, bổ sung và làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Củng cố và tăng cường sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. Sự thống nhất ở đây được thể hiện ở sự thống nhất về hệ tư tưởng, thống nhất về thể chế và thiết chế để quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa. Đồng thời bảo đảm sự đa dạng văn hóa gắn liền với việc tôn trọng, giữ gìn, phát huy và phát triển các giá trị và các sắc thái văn hóa của đồng bào các dân tộc cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam trên nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ và hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Thứ năm, đổi mới tư duy về nguồn lực phát triển văn hóa. Đảng ta đã khẳng định xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đều tham dự xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Đảng và Nhà nước cần tạo cơ hội, điều kiện và môi trường thuận lợi để huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để xây dựng và phát triển văn hóa.

Thứ sáu, tiếp tục nhấn mạnh tính đặc thù của văn hóa. Đảng ta đã khẳng định văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Văn hóa là một mặt trận giống như các mặt trận chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại nên cần phải đoàn kết, thống nhất lực lượng trong một tổ chức thống nhất để thực hiện những yêu cầu, những nhiệm vụ của cách mạng đề ra. Đồng thời, mặt trận văn hóa cũng là nơi diễn ra cuộc chiến đấu chống lại cái ác, cái xấu, cái giả để bảo vệ môi trường tinh thần lành mạnh của nhân dân. Văn hóa tác động vào đời sống tâm lý, tình cảm, thói quen, tập quán của xã hội đã được hình thành từ quá trình lịch sử. Muốn xây dựng giá trị văn hóa mới hay loại bỏ những thói quen, tật xấu cũ, đòi hỏi phải có thời gian lâu dài, và sự kiên trì, thận trọng, không thể nóng vội, chủ quan, duy ý chí, hoặc bảo thủ, trì trệ.

Thứ bảy, đổi mới tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị. Đảng ta đã khẳng định trong sự nghiệp đổi mới hiện nay thì nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Phát triển đồng bộ và toàn diện cả ba lĩnh vực trên là điều kiện bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Đề cao vị thế của văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế và chính trị nhằm hướng tới phát triển bền vững đất nước phản ánh tầm tư duy chiến lược và khoa học, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Thứ tám, đổi mới tư duy về phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa cho phù hợp với thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Công tác lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa chuyển dần từ chỗ chỉ đạo, điều hành trực tiếp sang chỗ xây dựng định hướng, hướng dẫn, triển khai việc thực hiện nghị quyết của Đảng, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối văn hóa của Đảng thành luật pháp. Nhà nước quản lý văn hóa bằng pháp luật và các chính sách cụ thể, bằng công tác tổ chức và cán bộ, công tác đầu tư cơ sở vật chất và công tác kiểm tra, giám sát… Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân tham gia xây dựng và phát triển văn hóa, thực hành dân chủ xã hội.

Thứ chín, đổi mới tư duy về văn hóa đối ngoại. Tích cực và chủ động mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa. Phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đẩy mạnh việc quảng bá thành tựu văn hóa và hình ảnh con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời nâng cao năng lực học tập và tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới, đấu tranh chống các hiện tượng phản văn hóa du nhập vào, làm sói mòn và biến dạng các giá trị văn hóa dân tộc. 

Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về văn hóa như vậy, công cuộc đổi mới văn hóa trên thực tiễn đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đóng góp vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước. Có thể khái quát những thành tựu bước đầu đạt được trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa trong gần 30 năm đổi mới vừa qua như sau:

Một là, nhận thức về vai trò của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong xã hội đã được nâng lên. Nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội đã được coi trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã có tác động sâu rộng và góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bước đầu khai thác văn hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế xã hội, giảm bớt những tiêu cực và tệ nạn xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường tạo nên. Vấn đề xây dựng và phát triển con người đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chỉ số phát triển con người đã tăng đáng kể.

Hai là, giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam đã được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. Công tác sưu tầm, bảo quản, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa đa dạng của nhân dân.

Ba là, tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và thưởng thức các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao. Lĩnh vực văn học - nghệ thuật; thông tin đại chúng đã có bước tiến đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ, quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được khẳng định. Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa có tác động tích cực trong việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa. 

Bốn là, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển đáng kể. Trình độ học vấn, kỹ thuật công nghệ của nhân dân, nhất là giới trẻ đã được nâng lên góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới.

Năm là, công tác nghiên cứu lý luận về văn hóa và phát triển đã được coi trọng. Nhiều chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước và cấp bộ về văn hóa, con người và nguồn nhân lực được Nhà nước quan tâm đầu tư. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa, văn học - nghệ thuật được chú trọng. Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hóa, văn học - nghệ thuật đã góp phần tích cực vào việc cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước.

Sáu là, giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn định, bền vững, góp phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các hoạt động văn hóa đối ngoại và thông tin đối ngoại có bước phát triển mới, nhất là các chương trình phát thanh và truyền hình Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức các tuần lễ văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, tuần lễ văn hóa nước ngoài tại Việt Nam; giao lưu hợp tác trong biểu diễn nghệ thuật, trong lĩnh vực điện ảnh, sân khấu, thể thao được tăng cường… 

Bảy là, quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tạo hành lang pháp lý cũng như tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các hoạt động văn hóa của cộng đồng. Nhà nước đã sửa đổi và ban hành mới các luật và pháp lệnh để điều chỉnh các hoạt động văn hóa như Luật Báo chí, Luật Di sản văn hóa dân tộc, Luật Quảng cáo, Luật Xuất bản… Ngoài hệ thống luật và các chính sách văn hóa, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các chiến lược, bao gồm: Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành năm 2009); Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020 (ban hành năm 2010); Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020 (ban hành năm 2011); Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (ban hành năm 2012)…

Hệ thống thiết chế văn hóa từ trung ương, tỉnh, thành phố đến thôn, bản, làng, xã, phố, phường được quan tâm quy hoạch lại, đầu tư nâng cấp và xây mới, đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Nhà nước đã tăng cường đầu tư ngân sách và các nguồn lực khác cho hoạt động văn hóa (bảo đảm mức 1,8% ngân sách chi cho ngành văn hóa).

Tám là, đổi mới trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa. Có thể nói trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã bám sát vào thực tiễn đổi mới của đất nước, kịp thời đề ra những chủ trương, những giải pháp đúng đắn để giải phóng sức sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc. Những quan điểm mới, nhận thức mới của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa kịp thời, trở thành động lực thúc đẩy văn hóa phát triển. Phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước cũng từng bước đổi mới để thích nghi với điều kiện lãnh đạo và quản lý văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, thực hành dân chủ rộng rãi và bảo đảm quyền văn hóa của người dân.

Có thể nói những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa gần 30 năm đổi mới vừa qua đã được khẳng định và rất đáng tự hào. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận thức rõ rằng sự phát triển về văn hóa trong gần 30 năm đổi mới vừa qua chưa tương xứng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực vốn có của dân tộc. Chất lượng hoạt động văn hóa còn hạn chế. Tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong xã hội diễn ra phức tạp. Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa còn chậm đổi mới. Các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế. Văn hóa chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh để phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu xây dựng thành công nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực sự là sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.

-----------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 75-76