Không để bị động, bất ngờ - tư tưởng chủ động giữ nước của toàn dân tộc

Nguyễn Văn Quang Đại tá, TS. Phó Trưởng Ban Nghiên cứu - Tổng kết lý luận, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng
21:21, ngày 15-12-2011
TCCSĐT - Không để bị động, bất ngờ là một trong những định hướng rất quan trọng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đã được Đại hội XI của Đảng ta xác định. Đây là sự kế thừa, bổ sung và phát triển truyền thống chủ động giữ nước một thời của ông cha “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”, “Biên phòng cần có phương lược tốt, đất nước nên có kế lâu dài”…

Tư tưởng chủ động giữ nước

Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc, khó lường và có những tác động bất lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để chèo lái con thuyền cách mạng nước ta đi đúng con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương thể hiện rõ tư tưởng chủ động giữ nước của dân tộc. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (tháng 7-2003) đề xuất quan điểm và phương phâm chủ động giữ nước: Đối với bên ngoài, “lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”; “Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu; tránh bị cô lập, lệ thuộc”. Đối với bên trong, “chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi”; “Thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm mống gây mất an ninh, không để bị động bất ngờ”.

Thực hiện tư tưởng chủ động giữ nước, sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2000 - 2010, diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường... Tuy nhiên, đất nước ta “vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia”; “Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động... Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ”(1).

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là các nước với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Hơn nữa, bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Tuy hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp; các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu diễn ra ở nhiều nơi.

Trước tình hình nhiệm vụ mới của đất nước, đặc điểm của thời đại và bối cảnh quốc tế, các văn kiện của Đảng ta tại Đại hội XI (1-2011) đều nhất quán theo định hướng: “chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(2); đồng thời quán triệt đường lối, chủ trương: “Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”; “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”(3). Định hướng này vừa là sự nối tiếp tư tưởng chủ động giữ nước của toàn thể dân tộc Việt Nam ta xuyên suốt mọi thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, vừa là sự kế thừa trực tiếp những tư tưởng chủ động, chăm lo phòng bị đất nước mà các kỳ đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới đề ra.

Một số biện pháp thực hiện tư tưởng chủ động giữ nước

Để đưa tư tưởng chủ động giữ nước của Đảng ta vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, nhận thức sâu sắc tư tưởng chủ động giữ nước của dân tộc Việt Nam, của Đảng ta. Đặc biệt, cần nhận thức đúng đắn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, thấy trước, chuẩn bị trước”; “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các công tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục, v.v.. Mỗi công tác phải hợp với từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh”(4).

Như vậy cần hiểu đúng, chủ động giữ nước là tổng thể các hoạt động giữ nước của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam luôn diễn ra từ trước, sớm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi và triệt tiêu những tư tưởng, âm mưu, hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới và lợi ích quốc gia, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung chủ động giữ nước là một chỉnh thể thống nhất các hành động mang tính chủ động giữ nước trong cả tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên cả phạm vi không gian và thời gian xác định; tuân thủ phương châm lấy việc ngăn chặn, ngăn ngừa, loại trừ sớm các nguy cơ chống phá sự nghiệp cách mạng, xâm phạm nền độc lập dân tộc làm chính, kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng mạnh lên về mọi mặt với tự bảo vệ trong mỗi bước phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực, tổ chức và con người; quán triệt tư tưởng tích cực, chủ động phát hiện từ sớm, ngăn chặn từ xa, triệt tiêu từ trước, xử lý kịp thời, dứt điểm mọi mầm mống, nguy cơ đe dọa đến chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ quyền lãnh thổ, an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trước mọi tình huống.  

Hai là, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn, an sinh xã hội. Một trong những vấn đề nổi lên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay không chỉ xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, tác động từ bên ngoài mà chính là những nhân tố chủ quan xuất phát từ bên trong, dẫn đến bị động, mất cảnh giác trong bảo vệ Tổ quốc. Cần sớm chủ động khắc phục những dấu hiệu buông lỏng, xa rời nguyên tắc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan, các đơn vị kinh tế; những biểu hiện phai nhạt mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận đảng viên, cán bộ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, cục bộ, tệ tham nhũng, quan liêu, xa rời quần chúng… Đấu tranh mạnh mẽ với những biểu hiện coi thường, hạ thấp, thủ tiêu đấu tranh tư tưởng, buông lỏng phòng ngừa bảo vệ chính trị nội bộ; đề phòng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tự đổ vỡ” về chính trị, tư tưởng và tổ chức ở một bộ phận cán bộ, viên chức và cơ quan nhà nước; nâng cao lòng tự hào dân tộc, niềm tin thắng lợi vào công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của quần chúng nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ; Chủ động đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai trái và thù địch; các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng những sơ hở, hạn chế, thiếu sót trong quản lý nhà nước, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” reo rắc sự hoài nghi; kích động tư tưởng chống đối, gây mất trật tự công cộng, bạo loạn xã hội nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Ba là, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập quốc tế. Sử dụng nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay, thực chất là chúng ta vận dụng những tính chất hợp lý, ưu việt, tiên tiến của kinh tế tư bản và giai cấp tư sản phục vụ cho việc xây dựng, phát triển các mục tiêu kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả kinh tế và lợi ích quốc gia và quán triệt quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”… còn phải xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Mặt khác, cần chủ động đấu tranh với những biểu hiện hết lời “ca ngợi”, “tán dương” kinh tế tư bản; nâng cao cảnh giác với những thủ đoạn “nhử mồi đầu tư”, “đề xuất cả gói” hay công khai can thiệp, áp đặt các chính sách, “luật chơi” kinh tế tư bản vào đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam; chủ động đề phòng với nguy cơ “tự chuyển hóa”, “đổi màu”, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Bốn là, chủ động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tính chất đặc biệt nguy hại của thứ “giặc nội xâm” và “quốc nạn” không chỉ tác động tiêu cực đến tốc độ, chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững đất nước mà còn làm suy giảm tinh thần bảo vệ Tổ quốc nói chung và ý thức chủ động giữ nước nói riêng của nhân dân ta. Do vậy, bên cạnh việc làm chuyển biến nhận thức về sự nguy hại của thứ “giặc nội xâm” này cần tập trung nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh; nâng cao tính tích cực chủ động bảo vệ nội bộ, phòng ngừa và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “câu kéo”, phá hoại cơ quan, đơn vị; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới; lãnh đạo, tổ chức và huy động đông đảo nhân dân và các đoàn thể chính trị, xã hội tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí cũng như tích cực đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng, hành động lợi dụng cuộc đấu tranh này để chống phá chính quyền, góp phần xây dựng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, chủ động hợp tác quốc tế, giải quyết khéo léo, linh hoạt các quan hệ quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong một môi trường đan cài đậm đặc các quan hệ quốc tế hiện nay, việc va chạm, xung đột, tranh giành các lợi ích quốc gia, dân tộc, thậm chí là “chiến tranh” kinh tế, tranh chấp chủ quyền, biên giới, biển đảo… là khó tránh khỏi. Hơn nữa, các thế lực thù địch đang ra sức chủ trương “đục nước béo cò”, “khuấy nước bắt cá”, kích động và lợi dụng những xung đột quốc gia và khu vực cho mưu đồ lợi ích riêng của chúng. Chính vì vậy, việc chủ động tăng cường hợp tác quốc tế, giải quyết khôn khéo các quan hệ quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước là vấn đề chiến lược, đại cục của quốc gia, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từ xa. Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế trong mọi chủ trương, chính sách, hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam chính là thể hiện tinh thần chủ động giữ nước cao nhất của dân tộc ta hiện nay.

Sáu là, tăng cường xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Với bản chất của một nền quốc phòng mang tính hòa bình, phòng vệ, tự vệ là chính, song trước bối cảnh quốc tế, khu vực hiện nay, chúng ta cần đẩy nhanh tiến trình xây dựng Quân đội, Công an “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đủ sức ngăn đe và làm nản ý chí xâm lược và chống phá của kẻ thù. Phát huy vai trò quan trọng của các lực lượng chuyên trách chủ động bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho Quân đội, Công an vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đoàn kết, thống nhất, phối hợp chặt chẽ giữa Quân đội và Công an, phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, “Công an nhân dân”; nhạy bén tiến công trên mặt trận chính trị - tư tưởng, chủ động “bóc gỡ”, triệt tiêu các tổ chức phản động bên trong lẫn bên ngoài, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Trên nền tảng quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp với đổi mới biên chế, tổ chức lực lượng thường trực; đầu tư vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Coi trọng cả huấn luyện, bổ sung phương án, cách đánh và tác chiến bằng phương thức vũ trang lẫn phương thức phi vũ trang, nhằm đánh thắng chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao và cả bạo loạn xã hội, bạo động chính trị, bảo đảm trật tự an toàn, an ninh xã hội, chủ động bảo vệ chế độ và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có hiệu quả nhất.

Phát huy truyền thống “Lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”, quý trọng nền độc lập của dân tộc và thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội, hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng viên, toàn thể nhân dân, chiến sĩ các lực lượng vũ trang cần nêu cao tinh thần chủ động giữ nước, thực hiện tốt tư tưởng bảo vệ Tổ quốc trong thời bình: “Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng, làm cho mình mạnh lên. Kết hợp chặt chẽ xây dựng và bảo vệ từ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước, có lợi cho độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm”(5). 


-----------------------------------------------


(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 170

(2) Tài liệu đã dẫn, tr 81-82

(3) Tài liệu đã dẫn,  tr 233

(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 317-320 

(5) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2003, tr 15-16