Bàn về tầm ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam trong quá khứ đến hiện tại

PGS, TS. Đào Tuấn Thành
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
00:26, ngày 30-09-2023

1. Các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam luôn có tầm ảnh hưởng và vai trò quan trọng trong bảo tồn, phát huy “bản sắc dân tộc Việt Nam” trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm qua.

Từ sau năm 1945, chiến thắng của Liên Xô và các nước đồng minh trước chủ nghĩa phát xít, cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt vong, bảo vệ hòa bình thế giới đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa, phụ thuộc đã diễn ra rầm rộ, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới. Kết quả đó, không chỉ đưa đến sự xuất hiện của hàng trăm quốc gia mới trên bản đồ chính trị thế giới, mà còn đặt nền móng cho sự hồi sinh và phát triển văn hóa dân tộc của các nước vừa mới thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân cũng như trong xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế của Việt Nam, các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam luôn có tầm quan trọng đặc biệt, đó là cái để phân biệt dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác, là cái để mỗi cá nhân nhận biết được cội nguồn của mình, biết mình là ai trong cộng đồng thế giới. Văn hóa thể hiện cốt cách dân tộc, là bản sắc của mỗi dân tộc. Khi nói về khái niệm văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn[1]. GS Trần Quốc Vượng cho rằng: Văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên, và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm,… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người. Như vậy thì phải xuất phát từ những điều kiện tự nhiên (con người vốn là một sản phẩm của tự nhiên, là một phần của tự nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà tạo thành văn hóa) rồi sau đó những điều kiện lịch sử (con người lại là một sản phẩm của lịch sử do chính mình tạo ra) để nhận thức về cội nguồn và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam[2]. Cũng theo GS Trần Quốc Vượng: lòng yêu nước Việt Nam đã được tô đậm lên để trở thành một ý thức hệ chủ đạo của người Việt Nam[3]. Vì vậy, theo tác giả bài viết, “lòng yêu nước” cũng trở thành một bản sắc đặc trưng của con người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, là cội nguồn để dân tộc Việt Nam chiến thắng trước những mưu toan bành trướng của các thế lực phong kiến phương Bắc và chủ nghĩa thực dân phương Tây kiểu cũ, kiểu mới, để Việt Nam tồn tại và phát triển, dù gặp phải rất nhiều khó khăn, gian khổ. Bản sắc này cần gìn giữ, nó có tầm ảnh hưởng to lớn, để dân tộc Việt Nam nhận diện được mình trong cộng đồng quốc tế. Việc phát huy ảnh hưởng và vai trò của truyền thống “yêu nước, thương nòi”, được các thế hệ đi trước không ngừng nuôi dưỡng, củng cố, càng cần phát huy trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biễn phức tạp, khó lường. Đó chính là di sản văn hóa vô giá mà các bậc tiền nhân đã để lại cho hậu thế, để người Việt Nam ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, cũng cần học, làm theo, để dân tộc Việt Nam trường tồn. Một trong những di sản văn hóa vô giá, đó là: Nhu có thể thắng cương, yếu có thể chống mạnh, ít có thể địch nhiều… chính đó là bản sắc Việt Nam. Chính đó là triết lý Việt Nam của cha mẹ tổ tiên ta qua nghiệm sinh mà rút đúc được: Cần ứng biến[4].

Về cội nguồn dân tộc Việt Nam, thì “con Rồng cháu Tiên” cũng là một bản sắc văn hóa Việt Nam rất đặc biệt. Trong gần một thế kỷ qua, hằng năm, Việt Nam có ngày giỗ Tổ Hùng vương (10/3 âm lịch) - một ngày lễ mà người Việt Nam, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, đều nhớ về tổ tiên, cội nguồn của dân tộc mình. Về điều này, GS Trần Quốc Vượng cho rằng: Người ta bảo: Văn hóa là một hệ chuẩn mực, mật mã, giá trị, biểu tượng. Con người - chính vì nó là người - không chỉ có một “thế giới thực” (monde réel) mà còn sáng tạo ra một “thế giới các biểu tượng” (monde de représentations) mô phỏng rồi dẫn dắt trở lại hiện thực. Một biểu tượng kỳ vĩ đặc sắc của dân tộc và văn hóa Việt Nam, chẳng biết rõ xuất hiện từ bao giờ, nhưng chậm lắm là từ thế kỷ X, đó là con rồng. Rồng là biểu tượng của cội nguồn dân tộc. Con Rồng cháu Tiên, con Hồng cháu Lạc, con của mẹ tiên Âu và bố rồng Lạc[5]. Trong một thế giới, mà ranh giới giữa các quốc gia có thể xác định được bằng đường biên giới “cứng”, thì trước xu thế toàn cầu hóa, trong đó có toàn cầu hóa về văn hóa, tính chất “cứng” của đường biên giới đó, lại khó giữ, nó được “mềm hóa” nếu các dân tộc nói chung, Việt Nam nói riêng, không giữ được bản sắc của dân tộc mình, không nhận diện được bản thân mình, hay nói cách khác, không biết mình là ai? Từ đâu đến?. Vì thế, bản sắc dân tộc là cái Việt Nam rất cần có và phải có bằng được, để nhận biết được mình, cái đó chính tạo ra “bản lĩnh dân tộc”. Về vấn đề này, GS Trần Quốc Vượng trong bài viết “Một nét bản sắc của văn hóa Việt Nam: khả năng ứng biến” đã quan niệm rằng “cái bản lĩnh - bản sắc biết nhu, biết cương, biết công, biết thủ, biết “trông trời, trông đất, trông mây…”, “rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì nhì thục”,… ấy, là khả năng ứng biến của người Việt Nam!”[6]. Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Phấn đấu đến năm 2045[7], trở thành một nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng XHCN như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Tuy vậy, theo quan điểm của cá nhân tác giả bài viết, trong tiến trình ấy, Việt Nam vẫn cần coi trọng sản xuất nông nghiệp (sản xuất theo hướng sử dụng công nghệ cao, xanh và bền vững), Việt Nam cần trở thành “bếp ăn” của cả thế giới, một cường quốc nông nghiệp hàng đầu. Nếu hiện thực hóa được điều này, chính là, Việt Nam đã tiếp tục phát huy thế mạnh về văn hóa của mình. Tác giả bài viết rất đồng ý với nhận định của GS Trần Quốc Vượng rằng: Mẫu số chung lớn nhất của văn minh - văn hóa Việt Nam truyền thống là tảng nền nông nghiệp đa canh xoay quanh trục trung tâm nghề nông trồng lúa[8].

Truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm luôn có ảnh hưởng rất lớn đến các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Điều này đã được danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi khẳng định trong “Bình Ngô đại cáo”:

Như nước Đại Việt ta

Thật là một nước văn hiến!

Cõi bờ sông núi đã riêng.

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần đời đời dựng nước.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên làm đế một phương.

Tuy yếu mạnh có lúc khác nhau

Song hào kiệt bao giờ cũng có”[9].

Những đúc kết mà Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo” đã được GS Trần Quốc Vượng diễn giải như sau: Nước Đại Việt là một nước văn minh có lãnh thổ riêng, có văn hóa (với cốt lõi là phong tục) riêng, có chủ quyền độc lập đầy đủ, diễn tiến, biến chuyển trong lịch sử, có khi thăng, khi trầm, lúc mạnh, lúc yếu nhưng thời nào cũng có một hằng số bất biến, là NHÂN DÂN, mà đại biểu là những anh hùng hào kiệt[10].

Các giá trị lịch sử luôn có một vai trò to lớn đối với giáo dục truyền thống dân tộc, nhất là truyền thống yêu nướcbản sắc dân tộc Việt Nam cho thế hệ trẻ. Thông qua những tri thức về các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa, các sự kiện hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc có thể tạo dựng không chỉ lòng biết ơn mà cả sự tự hào của người dân Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Trong bức thư gửi hội thảo khoa học “Môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” ngày 26 tháng 3 năm 2008, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Chủ tịch danh dự của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam,  “vị tướng của nhân dân”, một trong những tướng tài của thế giới được cộng đồng quốc tế ghi nhận - đã khẳng định về vai trò của khoa học lịch sử và tầm quan trọng của giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ khi ông cho rằng: Sử học là một ngành khoa học rất quan trọng trong nền khoa học xã hội và nhân văn và môn Lịch sử là một trong những môn học cơ bản trong hệ thống giáo dục phổ thông. Lịch sử không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới mà còn giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, gìn giữ bản sắc dân tộc. Lịch sử thế giới đã bước vào kỉ nguyên thông tin và tri thức với xu hướng toàn cầu hóa rất mạnh. Trong bối cảnh chung của thời đại và khi đất nước đang trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập thế giới, môn Lịch sử, nhất là Quốc sử, càng cần được coi trọng và cần phát huy chức năng giáo dục để chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ công dân trong xây dựng, bảo vệ đất nước, cũng như trong giao lưu với các nền văn hóa khác để tiếp nhận các thành tựu của văn minh nhân loại mà vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và sự đa dạng của văn hóa thế giới[11]. Chính bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trước khi trở thành “Anh bộ đội Cụ Hồ” thì đã từng là một thầy giáo dạy Sử. Có thể thấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một ví dụ tiêu biểu của việc sử dụng, phát huy ảnh hưởng và vai trò của tri thức lịch sử trong cuộc đời binh nghiệp lẫy lừng của mình. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã học kinh nghiệm về sách lược tác chiến của các nhà quân sự hàng đầu thế giới như Napoléon Bonapac (Pháp), Kutuzov (Nga), Carl von Clausewittz (Đức),… hay Việt Nam (Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… ) khi chỉ huy quân đội cách mạng Việt Nam. Những tri thức quân sự đó, đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, nghiền ngẫm và phản biện, nhất là vận dụng sáng tạo, sao cho phù hợp với thực tiễn chiến tranh và điều kiện về vật chất của Việt Nam, để rút ra những điểm cốt yếu nhất. Đó chính là chìa khóa thành công của Đại tướng khi ông đã lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam giành được những chiến công hiển hách trong thế kỷ XX. Tri thức lịch sử đã giúp cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất nhiều, với tư cách là một người cầm quân, một thống soái, mà trong hơn 20 năm ròng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam,… cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước lãnh đạo toàn dân, toàn quân trong cuộc trường chinh gian khổ nhất[12]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi tổng kết về nghệ thuật quân sự, đã khẳng định: Trong quân sự, muốn thắng lợi chỉ có hai điểm cơ bản có ý nghĩa quyết định: tinh thần quyết chiến quyết thắng, đó là cái chí, và biết đánh, biết thắng, đó là cái thông minh. Quyết mà không biết thì không được. Ngược lại, biếtkhông dám quyết thì cũng không xong[13]. Thiết nghĩ, nếu các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau biết học, biết phát huy nghệ thuật quân sự mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết, thì đó sẽ là chìa khóa thành công, để Việt Nam bảo vệ được chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc; bảo vệ được chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển phồn vinh.

Trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, độ mở của nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn. Cùng với kinh tế, văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa tiến bộ, tích cực thì còn có cả những khuynh hướng, giá trị mới, xa lạ, thậm chí trái ngược với các giá trị văn hóa dân tộc, đi ngược với sự phát triển của văn hóa dân tộc do Đảng lãnh đạo. Theo GS, TS,NGND Phan Ngọc Liên trong việc hòa nhập vào thế giới vẫn cần có sự tỉnh táo, cảnh giác về chính trị, đứng vững trên quan điểm đúng, tránh sự ô nhiễm về môi trường văn hóa, đánh mất bản sắc dân tộc, trở thành cái bóng mờ nhạt của kẻ khác[14]. Từ góc nhìn của một nhà Sử học, đồng thời cũng là một nhà Giáo dục Lịch sử, GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên chỉ ra lý do Việt Nam cần tỉnh táo khi giao lưu, tiếp nhận văn hóa, bởi “sự giao lưu văn hóa của nhân loại thực sự bắt đầu với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tạo nên thị trường thế giới. Nó làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc từ ngẫu nhiên, nhất thời, trở thành tất yếu và thường xuyên. Các dân tộc châu Âu, nơi phát sinh chủ yếu của chủ nghĩa tư bản, đã dựa vào sức mạnh vật chất, vào vũ lực để khuất phục nhiều dân tộc khác, trong đó có những dân tộc vốn có truyền thống văn hóa lâu đời, rực rỡ. Sự lan rộng của văn hóa châu Âu tư bản chủ nghĩa mang trong nó mâu thuẫn rõ rệt. Một mặt, nó phá hủy những quan hệ xã hội cũ lỗi thời, xóa bỏ sự trì trệ nhiều mặt của xã hội, trong đó có sự trì trệ về văn hóa của các nước phương Đông, đưa văn hóa thế giới lên một trình độ cao hơn. Mặt khác, do chủ nghĩa tư bản dùng vũ lực để chinh phục, nô dịch các nước khác, nên nó đã hủy hoại truyền thống dân tộc, ra sức ngăn cản sự phát triển của các dân tộc, kìm hãm họ trong tình trạng lạc hậu”[15]. Nhận định của GS, TS Phan Ngọc Liên cho thấy rõ tính hai mặt của giao lưu văn hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa và kỷ nguyên công nghệ thông tin hiện nay, khi biên giới “mềm” của quốc gia gần như bị xóa nhòa, thì mỗi dân tộc, càng cần phát huy những ảnh hưởng của bản sắc dân tộc trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của mình. Khi mà văn hóa phương Tây tràn ngập thế giới, như một cơn lốc, với sức mạnh vượt trội của nó, tràn đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam, nên, nếu chúng ta không biết gìn giữ những giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc nói chung, mỗi địa phương nói riêng (trong đó có tỉnh Quảng Ninh), thì rất nguy hại. Sẽ xuất hiện tình trạng nhiều người Việt Nam nhạt nhòa bản sắc, không biết mình là ai, không nhận diện được bản sắc của dân tộc mình, khi giao lưu với cộng đồng thế giới, sẽ bị “phương Tây hóa” về văn hóa. Trong bối cảnh đó, bên cạnh sự tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại, thì ảnh hưởng của các giá trị lịch sử, văn hóa và con người của Việt Nam ra ngoài biên giới quốc gia, dưới sự tiếp sức của mạng toàn cầu (internet) và các phương tiện truyền thông đại chúng thông minh (smart media) cũng xảy ra và sẽ lan rộng rất nhanh. Việc phát huy tầm ảnh hưởng của các giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc dân tộc Việt Nam, sẽ góp phần rất lớn quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế, làm phong phú nền văn hóa thế giới.

GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên cho rằng: Quá trình phát triển trong quá khứ cũng như trong tương lai của văn hóa Việt Nam phải là bản sắc dân tộc của nó. Bản sắc này phải được thể hiện ở nhân cách của con người Việt Nam. Đó là nhân cách của con người biết chăm lo hạnh phúc của mình trong hạnh phúc chung của dân tộc và nhân loại, biết làm cho mình giàu mà nước mạnh, biết thương mình và thương người, biết chống lại những dục vọng thấp kém, tầm thường vì những mục đích cao cả của dân tộc và con người. Bản sắc và nhân cách ấy rất dân tộc, rất khoa học, đại chúng, vì nó thể hiện ước mơ của mỗi người, của đông đảo người lao động, của dân tộc mà cũng rất hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại, biết kết hợp di sản văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại[16].

Có thể khẳng định, bản sắc dân tộc Việt Nam và nhân cách con người Việt Nam đã kết tinh ở con người Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã không chỉ được nhân dân Việt Nam mà cả cộng đồng quốc tế thừa nhận. Theo đánh giá của GS, TS Phan Ngọc Liên tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như những tư tưởng tiến bộ khác vẫn “sống mãi” vì nó kế thừa những giá trị “vĩnh cửu” của nhân loại, đáp ứng được những yêu cầu của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại. Hơn nữa, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là kết quả năng lực tư duy và hoạt động của bản thân Hồ Chí Minh, mà còn của nhân dân Việt Nam, của nhân loại tiến bộ. Các thế hệ đương thời và tiếp nối sẽ kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, truyền thống dân tộc, kết quả hoạt động thực tiễn, việc đáp ứng yêu cầu lâu dài của cuộc sống… làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn[17].

Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới biết đến không chỉ là một nhà lãnh đạo xuất chúng, có công lao dẫn dắt nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh trường kì, gian khổ, để giành độc lập và tự do, mà còn nể phục, kính trọng Người như một danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng “vì dân”, “trọng dân”, “gần dân”, “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới đánh giá cao, ngưỡng mộ và noi theo. Tầm ảnh hưởng và sự lan tỏa rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh trên trường quốc tế là một giá trị lịch sử - văn hóa - con người vô giá. Thế giới sẽ biết đến bản sắc dân tộc, cốt cách người Việt Nam nhiều hơn, nếu mỗi người dân, không chỉ học theo gương Hồ Chí Minh mà còn làm theo, cụ thể hóa những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy trong cuộc đời của mỗi cá nhân, bắt đầu từ những cái nhỏ nhất.

2. Bài học kinh nghiệm trong quá khứ (kể cả thành công lẫn thất bại) luôn là một di sản vô giá đối với tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam từ thủa các Vua Hùng dựng nước đến nay. Bởi lẽ những giá trị đích thực của quá khứ bao giờ cũng là bài học kinh nghiệm cho hiện tại, soi sáng nhận thức và hành động ở hiện tại và thực hiện một tương lai hợp lôgíc của sự phát triển xã hội[18].

Một trong những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng và có vai trò lớn trong lịch sử dân tộc là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trong kế giữ nước, ông đã để lại cho hậu thế hai bài học rất có ý nghĩa. Đó là: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” và “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước ra sức”. Lời dạy đó không chỉ củng cố sự đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh vô song trong cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của đế quốc Mông Nguyên ở một giai đoạn lịch sử đầy biến động của thế giới trước vó ngựa của quân đội Mông Nguyên, mà còn là kế sách xây dựng và bảo vệ Việt Nam, không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà cả trong tương lai. Tầm ảnh hưởng của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là lâu dài và bền vững, trong lòng người dân Việt Nam trước kia và hiện nay. Đó thực sự là một giá trị tinh thần, một di sản văn hóa - chính trị - quân sự vô giá của tiền nhân, của một trong những danh tướng lỗi lạc đã được cộng đồng thế giới nể phục.

Là một người có nhiều năm nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên khẳng định: Trong mọi lĩnh vực đạo đức truyền thống dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tiếp thu nhiều điều tốt đẹp trong đạo đức của nhân loại nhưng vẫn giữ vững bản sắc của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho việc bảo vệ, phát huy bản sắc đạo đức dân tộc. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay hay mai sau phải noi gương Người trong việc bảo tồn cái bản sắc quý báu này. Nội dung của bản sắc đạo đức dân tộc Việt Nam có nhiều, song những nét chủ yếu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc là: Tôn trọng nhân nghĩa trong mọi quan hệ xã hội; lấy tinh thần yêu nước làm tiêu chuẩn tối cao để rèn luyện và đánh giá một con người. Lòng yêu nước của nhân dân ta trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tạo nên những giá trị tinh thần, vật chất cho dân tộc; sự tôn trọng và bình đẳng giữa các lớp người khác nhau về thế hệ, tuổi tác, địa vị xã hội, quan hệ gia đình; tính cải tạo cách mạng, tinh thần “kiến nghĩa bất vi” giữa đường cảm thấy “sự bất bình chẳng tha”. Điều này thể hiện tinh thần dũng cảm trong bảo vệ chính nghĩa, lẽ phải; khiêm nhường, giản dị nhưng không thông tục, tự bi, bình thường mà sâu xa trong triết lý cuộc đời; nhận thức về đạo đức và hành vi đạo đức gắn liền với nhau[19].

Trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, tầm ảnh hưởng những giá trị văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhiều thế hệ người Việt Nam là rất lớn, kể cả những người có sự khác biệt về quan điểm đối với Người. Hồ Chí Minh là người rất coi trọng giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, nhất là thanh niên. Trong bài viết “Đổi mới việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh” GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên đã khẳng định “vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên bao giờ cũng là nhiệm vụ quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Bởi vì, họ là người chủ tương lai, quyết định vận mệnh của đất nước. Chính vì vậy mà trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết tha căn dặn: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ (tức là thế hệ trẻ - tác giả chú thích), đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “”hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết[20]. Cũng theo GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên đạo đức là một phạm trù lịch sử và mang tính giai cấp. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ phải tính đến những điều kiện chính trị - xã hội cụ thể, phải gắn với định hướng chính trị của đất nước. Không thể có thứ đạo đức “thuần túy” của một dân tộc mà không chịu tác động, ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa đạo đức nhân loại. Cũng không có thứ đạo đức chịu tác động “phi chính trị”, “toàn thế giới” mà không nhằm mục đích cuối cùng của dân tộc, giai cấp[21].

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ thiên tài và tiêu biểu của cách mạng Việt Nam, mà bản thân Người còn là hiện thân của một nhà chính trị, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Trong con người Hồ Chí Minh kết tụ đầy đủ những giá trị, cho thấy tầm ảnh hưởng to lớn và lâu dài của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người, đến không chỉ nhân dân Việt Nam mà còn nhân dân ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các dân tộc từng là thuộc địa, nửa thuộc địa và phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc. Một trong những ảnh hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến hậu thế chính là tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Trong phương pháp làm việc, theo GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên một phương pháp nhận thức rất quan trọng đối với Hồ Chí Minh là học tập trong cuộc sống, đến tận những nơi xảy ra các sự kiện lớn mà tìm hiểu. Có thể xem đấy là phương pháp nghiên cứu thực địa trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh[22]. Tấm gương Hồ Chí Minh về phương pháp làm việc, nhất là phương pháp nghiên cứu thực địa vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn, gợi mở cho các cán bộ, đảng viên trong công tác của mình, đó là bài học về gần dân, coi trọng khảo sát thực tiễn để không bị quan liêu, lý thuyết suông,… khiến cho hiệu quả công việc không cao. Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một di sản vô giá mà Người để lại cho nhân dân Việt Nam. Đã hơn nửa thế kỷ, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, phong cách Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị tham khảo và noi gương. Phong cách Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của 1. Phong cách tư duy; 2. Phong cách làm việc; 3. Phong cách diễn đạt; 4. Phong cách ứng xử và 5. Phong cách sinh hoạt[23]. Việc học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh cần được tiếp tục và thiết thực hơn trong bối cảnh của đất nước hiện nay.

Từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới (năm 1986) đến nay, đất nước thực sự “thay da, đổi thịt”, đúng như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta[24]. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập quốc tế sâu rộng, người lớn sẽ có lỗi với con em chúng ta, nếu sao nhãng việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Chỉ có như vậy mới không dẫn đến tình trạng nhiều thanh niên Việt Nam khi ra nước ngoài, giao lưu với bè bạn quốc tế mà mất “gốc”, quên mất cội nguồn, nhạt nhòa về bản sắc, lạc lõng giữa cộng đồng quốc tế. Chính vì lẽ đó, việc tăng cường phát huy ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người” Việt Nam, càng có giá trị thực tiễn và ý nghĩa quan trọng để xây dựng Việt Nam ngày càng hùng cường, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đúng như lòng mong mỏi và sự kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Theo GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta bài học về sử dụng giá trị văn hóa xưa của dân tộc cũng như của nước ngoài đã được “Việt hóa” trở thành tài sản văn hóa dân tộc. Trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ phải vừa bảo đảm tinh thần, bản sắc dân tộc, vừa phải phục vụ tốt nhất để giáo dục đạo đức cách mạng. Gìn giữ bản sắc dân tộc và giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng không có gì mâu thuẫn với nhau. Bởi vì trong đạo đức cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có không ít những nét cơ bản của đạo đức truyền thống dân tộc, dù vẫn có những khác biệt về nguyên tắc, đó là tính cách mạng, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tinh thần quốc tế vô sản; đặt lợi ích dân tộc, nhân dân trên lợi ích cá nhân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư v.v..[25].

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng nhằm giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội (giải phóng giai cấp và giải phóng con người) đã sử dụng rất nhiều tri thức lịch sử như một cơ sở xác định con đường cứu nước, vạch ra đường lối chiến lược, sách lược cứu nước, đào tạo, huấn luyện cán bộ và giáo dục nhân dân. Vào khoảng cuối năm 1941, khi Việt Nam còn chưa giành được độc lập, tự do, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đang ở thời kỳ cam go, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tập diễn ca lịch sử tại Cao Bằng. Tập diễn ca lịch sử Việt Nam này đã được dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ trong các lớp huấn luyện ở chiến khu thời đó, được phổ biến rộng rãi trong nhân dân (phần lớn là chưa biết chữ). Nhiều đồng chí, đồng bào đã thuộc lòng từng đoạn của tập diễn ca lịch sử dân tộc này. Sự ra đời của tác phẩm đó đã giúp rất nhiều cho việc giáo dục và động viên các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần chuẩn bị cho sự thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mở đầu tác phẩm “Lịch sử nước ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”[26].

Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương về việc sử dụng các tri thức lịch sử dân tộc để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân đi theo con đường cách mạng của Đảng. Thông qua việc trình bày ngắn gọn, súc tích, sinh động về lịch sử Việt Nam trải qua hàng ngàn năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc, khích lệ tinh thần yêu nước của quần chúng nhân dân trong những giờ phút cách mạng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, gian khổ; trong lúc mà quần chúng lao khổ đang quằn quại dưới ách thống trị của cả quân phiệt Nhật lẫn thực dân Pháp. Việc Người dự báo trong mục “NHỮNG NĂM THÁNG QUAN TRỌNG” rằng: “1945 - Việt Nam độc lập”[27] đã thể hiện sự tiên đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tương lai thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính điều này đã khích lệ quần chúng nhân dân cả nước vững tin đi theo Đảng và Việt Minh. Trong “Lịch sử nước ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi:

Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”[28].

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một ví dụ tiêu biểu cho thấy, tầm ảnh hưởng và vai trò to lớn của việc sử dụng các giá trị lịch sử - văn hóa - con người trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhằm vận động và lôi kéo quần chúng nhân dân, khiến cho họ vững tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự dẫn đường của Đảng.

Như vậy, với tầm nhìn xa, trông rộng, ngay từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc/Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ tầm quan trọng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi chúng ta biết phát huy và lan tỏa truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông, những giá trị tinh thần vô giá đó đã, đang và sẽ tạo thành sức mạnh vô địch để dân tộc Việt Nam chiến thắng những kẻ thù hung bạo nhất, những đế quốc thực dân sừng sỏ nhất để bảo vệ phẩm giá con người Việt Nam, để giành lại độc lập cho Tổ quốc và tự do cho nhân dân, bởi lẽ, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Lời kêu gọi nhân ngày 20 tháng 7 năm 1965, Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Chúng ta đã từng đánh đổ phát xít Nhật, đánh bại thực dân Pháp và hiện nay đang kiên quyết đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Chúng ta quyết tâm giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, giành tự do hoàn toàn cho nhân dân. Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn[29]. Quyết tâm sắt đá đó xuất phát từ tinh thần/tư tưởng/triết lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, tại thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn đầy thử thách và khó khăn (năm 1965).

Trong bài trả lời phỏng vấn của đồng chí Phran Phabe, phóng viên báo “Nước Đức mới”, đăng trên báo Nhân dân ngày 02 tháng 9 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, nhưng hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc. Nhân dân Việt Nam biết rằng muốn có hòa bình thực sự thì phải có độc lập thật sự; và đấu tranh cho độc lập dân tộc tức là đấu tranh bảo vệ hòa bình. Nhân dân Việt Nam quyết không dung thứ cho bọn xâm lược Mỹ phá hoại hòa bình, giày xéo lên độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình[30].

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước năm 1945, tiếp nối là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chính nhờ việc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bậc tiền bối cách mạng biết khơi dậy, phát huy lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường, không ngại hy sinh, gian khổ, nên bao thế hệ người Việt Nam đã luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sức mạnh tinh thần, sức mạnh của “văn hóa Việt Nam”, sức mạnh của “những bài học lịch sử”, tấm gương của các anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,… thực sự đã tiếp sức cho cả dân tộc, khi phải đối mặt với những kẻ thù mạnh hơn mình rất nhiều. Nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam đã dâng hiến tuổi thanh xuân, xương máu cho Tổ quốc. Tinh thần chiến đấu, sự hi sinh của họ đã tô thắm lá cờ Tổ quốc, góp phần đưa đến chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ thành công thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới, chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc những năm sau đó, tinh thần tận hiến cho Tổ quốc vẫn được thế hệ trẻ Việt Nam phát huy, tinh thần cách mạng sáng ngời của bao anh hùng, liệt sĩ, chiến sĩ tiếp tục lan tỏa, khích lệ, động viên các thế hệ sau vững bước trên con đường cách mạng mà cha ông đã đi. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Lịch sử nước ta từng dành những trang chói lọi cho tuổi trẻ nước ta. Tiền đồ xán lạn của dân tộc đang nằm trong tay và chờ đón tuổi trẻ[31].

3. Thay cho lời kết

Thứ nhất, việc phát huy ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam, thông qua hoạt động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là cần thiết trong bối cảnh đất nước hiện nay. Mỗi địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, cần nhận thức đúng, triển khai bài bản, thiết thực, hiệu quả về tầm quan trọng của việc phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa - con người, nhất là kinh nghiệm của cha ông trong tiến trình dựng nước và giữ nước đến người dân. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới nhanh chóng thịnh vượng, bắt kịp con tàu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nắm bắt được cơ hội phát triển do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đưa lại, phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương cũng như của cả nước. Đồng thời, đó cũng là một nhân tố cấu thành, bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa về văn hóa là một xu thế không thể đảo ngược.

Thứ hai, cần phải xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Việc này sẽ thuận lợi hơn nếu chúng ta biết khơi dậy và phát huy tối đa ảnh hưởng của các giá trị lịch sử (công lao của các thế hệ đi trước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), giá trị văn hóa (bản sắc dân tộc Việt Nam), giá trị con người (các danh nhân văn hóa[32], danh nhân quân sự, danh nhân khoa học,… - những người đã làm rạng rỡ Việt Nam trong sự nhìn nhận của quốc tế, như Chu Văn An, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp…). Họ là những cá nhân kiệt xuất, có tầm ảnh hưởng, lan tỏa các giá trị, toát lên được hồn cốt văn hóa Việt Nam, nhân cách con người Việt Nam, bản sắc dân tộc Việt Nam (thông minh, cần cù, không cam chịu yếu kém và nghèo nàn, hiếu học…). Trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế, Việt Nam cần tiếp thu tối đa những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại, nhưng không được để mất đi bản sắc dân tộc; văn hóa Việt Nam phải nhận diện được trong cộng đồng quốc tế. Đây là một việc không dễ, nhưng phải làm cho được. Các danh nhân trên các lĩnh vực khác nhau, nhất là danh nhân văn hóa của Việt Nam, luôn luôn có tầm ảnh hưởng rất lớn, lâu dài đối với đất nước, có lợi thế khi quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, các giá trị lịch sử, văn hóa vô giá, đến cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, theo quan điểm của tác giả bài viết, việc nhận diện đầy đủ, toàn diện và chính xác vai trò và tầm quan trọng về ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người” Việt Nam trong quá khứ đến hiện tại (mà gần nhất là lịch sử đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1930 đến nay) sẽ góp phần định hướng nhân cách của con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa, bồi đắp tinh thần cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến cho Tổ quốc, quê hương của thế hệ trẻ hiện nay và mai sau. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho các thế hệ công dân tương lai của Tổ quốc, những người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Mặt khác, chỉ khi chúng ta phát huy được tối đa ảnh hưởng và vai trò của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam trong phát triển và hội nhập quốc tế, thì Việt Nam mới rút ngắn được thời gian trở thành một nước phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc, đạt trình độ phát triển tiên tiến, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và tôn vinh, hiện thực hóa được mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ tư, tác giả bài viết tâm đắc với những trăn trở của GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên liên quan đến việc phát huy ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người trong tiến trình phát triển  của Việt Nam khi ông cho rằng “… trong sự phát triển mạnh mẽ “sự cất cánh” của nhiều quốc gia quanh ta, việc bảo vệ văn hóa, đạo đức dân tộc được thực hiện rất tốt và là điều kiện cho sự phát triển. Bên cạnh sự “hiện đại” người ta vẫn nhận thấy “tính dân tộc” trong quan hệ xã hội, trong lối sống, cách trang phục, kiến trúc, văn học, nghệ thuật. Nghiêm khắc mà nói chúng ta phải thừa nhận rằng, tính dân tộc Việt Nam trong mấy thập kỷ qua có phần suy giảm nghiêm trọng, phải báo động. Thay thế cho quan hệ, đối xử một cách “cứng nhắc”, “lập trường” vốn xa lạ với chủ nghĩa Mác-Lênin, với tư tưởng, đạo đức, phong cách  Hồ Chí Minh là “lối sống Tây”, “rất Tây” trên mọi lĩnh vực của cuộc sống sẽ gây nên sự nhiễu loạn trong hệ thống giá trị xã hội”. Chính vì lẽ đó, tác giả bài viết cho rằng, càng giàu có về kinh tế, đời sống nhân dân ta càng được cải thiện về vật chất thì lại càng cần thiết, phải nâng cao tương xứng về tinh thần.

Hàm ý của GS Trần Quốc Vượng khi khảo cứu về “Cái chung và cái riêng trong sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam”[33] rất đáng suy ngẫm, có giá trị tham khảo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau. Đó là chúng ta nên và cần xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam như một thể thống nhất (ở nội dung XHCN và tính chất dân tộc) mà vẫn còn nhiều hương sắc của đại gia đình các dân tộc anh em ở Việt Nam[34].

Trong bối cảnh của thế giới và Việt Nam hiện nay, chúng ta lại càng khâm phục tầm nhìn xa, trông rộng của Đảng, mà ngay từ năm 1943, Tổng Bí thư Trường Chinh đã soạn thảo Đề cương văn hóa về Việt Nam được Hội nghị Thường vụ Trung ương tháng 02 năm 1943 thông qua. Đây là một văn kiện mang tính thời đại được xem là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa ra đời khi mà Việt Nam còn chưa giành được độc lập. Cương lĩnh đã đề ra ba nguyên tắc quan trọng trong xây dựng nền văn mới của Việt Nam: Dân tộc hóa; Đại chúng hóaKhoa học hóa. Năm 1943, trong bối cảnh nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đang tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ để chống lại ách thống trị của quân phiệt Nhật và thực dân Pháp, nhằm giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân, lấy lại tên Việt Nam trên bản đồ chính trị thế giới, với tầm nhìn xa, trông rộng, Đảng đã coi trọng vấn đề xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa cách mạng. Sau 80 năm, các nguyên tắc “Dân tộc hóa, Đại chúng hóaKhoa học hóa” của Bản Đề cương về văn hóa năm 1943 vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục phát huy ảnh hưởng và vai trò của nó trong công cuộc phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam, góp phần gìn giữ, phát triển và lan tỏa bản sắc dân tộc Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Nhờ vậy, văn hóa thực sự trở thành “ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ năm, để phát huy tốt hơn nữa ảnh hưởng và vai trò của các giá trị lịch sử -văn hóa - con người trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, trong hiện tại và sau này chúng ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng của việc học tập theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; nắm vững, vận dụng linh hoạt và sáng tạo những vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Thà hy sinh tất cả chứ không để mất nước, không chịu làm làm nô lệ”, “Bốn bể đều là anh em”, “Nói đi đôi với làm”, “Dĩ bất biến ứng vạn biến”… Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh là một di sản vô giá cho muôn đời, tiếp tục dẫn dắt cho dân tộc Việt Nam đi đến bến bờ thịnh vượng và vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đúng như lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Việc phát huy hơn nữa ảnh hưởng của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam, nhất là các danh nhân văn hóa, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bối cảnh thế giới và đất nước hiện nay là rất cần thiết. Bởi lẽ, Danh nhân lịch sử nói chung, Danh nhân văn hóa nói riêng là những nhân vật lịch sử có nhân cách đạo đức cao đẹp trong cuộc sống, tài năng kiệt xuất trong lĩnh vực mà họ hoạt động. Vì thế, cuộc đời và sự nghiệp của họ luôn là tấm gương cho hậu thế, có giá trị giáo dục, có tầm ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đối với các thế hệ sau. Chính vì vậy, trong bối cảnh Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; toàn cầu hóa nói chung, toàn cầu hóa về văn hóa nói riêng trở thành một xu thế không thể đảo ngược, việc tăng cường phát huy giá trị giáo dục các danh nhân lịch sử, trong đó có Danh nhân văn hóa là rất cần thiết. Điều này sẽ góp phần rất lớn vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc,… sẽ giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam nhận diện được bản thân khi giao lưu với bạn bè quốc tế, qua đó, góp phần bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm kiêu hãnh quốc gia[35]. Các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam là một di sản vô giá mà các thế hệ cha ông, các bậc tiền bối cách mạng để lại cho thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay. Nếu chúng ta biết phát huy, tiếp tục lan tỏa những giá trị đó, nhất định tuổi trẻ Việt Nam hôm nay sẽ có thêm động lực, quyết tâm, để phát huy những giá trị, thế mạnh của con người Việt Nam trong phát triển kinh tế, nghiên cứu khoa học, để đưa đất nước đến bến bờ vinh quang. Tác giả bài viết cho rằng, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thế giới hiện nay, nếu chúng ta biết phát huy hiệu quả ảnh hưởng và vai trò của các giá trị lịch sử - văn hóa - con người Việt Nam, thì Việt Nam sẽ thành công nhanh hơn và sớm hơn, xây dựng được một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, như lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong thế kỷ XX, Việt Nam từng là nước dẫn đầu trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới. Trong thế kỷ XXI, khát vọng phát triển sẽ là động lực để Việt Nam trở thành một trong các nước phát triển trên thế giới. Muốn vậy, tỉnh Quảng Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung cần phải “coi trọng hơn nữa vấn đề học tập và xây dựng xã hội học tập để làm cho con người Việt Nam ta trong thế kỷ XXI này trở thành những con người yêu nước, có tinh thần độc lập tự chủ, có trí tuệ thông minh, có năng lực sáng tạo, có kĩ năng nghề nghiệp”[36]. Đồng thời, các thế hệ người Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc và triển khai hiệu quả trong thực tiễn lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là, phải học, học nữa, học mãi, “Học đến hơi thở cuối cùng[37]./.

------------------------------

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458.

[2] GS Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2016, tr. 27 - 28.

[3] GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 32.

[4] GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 38.

[5] GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 39.

[6] GS Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2016, tr. 41.

[7] Năm kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

[8] GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 44.

[9] Dẫn theo: GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 55 - 56.

[10] GS Trần Quốc Vượng: Sđd, tr. 56.

[11] Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự nghiệp khoa học, giáo dục và đào tạo, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2014, tr. 301.

[12] GS, TS Phạm Hồng Tung, “Bản lĩnh chính trị và phẩm chất thiên tài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Một tiếp cận lịch sử”, bài đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghiên cứu danh nhân một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện Nghiên cứu Danh nhân, Trung ương Hội Khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam, Hà Nội, 2023, tr. 268.

[13] Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự nghiệp khoa học, giáo dục và đào tạo, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2014, tr. 286.

[14] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 54.

[15] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 55.

[16] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 58.

[17] GS, TS Phan Ngọc Liên, Lịch sử và giáo dục lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 112.

[18] GS, TS Phan Ngọc Liên, Lịch sử và giáo dục lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 112.

[19] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 304 - 305.

[20] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Sđd, tr. 302.

[21] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Sđd, tr. 302.

[22] GS, TS Phan Ngọc Liên, Lịch sử và giáo dục lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 99 - 100.

[23] Dẫn theo GS Nguyễn Xuân Kỳ (Chủ biên), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 56.

[24] Nguồn: https://daihoi13.dangcongsan.vn/multimedia/bai-5-khat-vong-hung-cuong-va-hien-thuc-hoa-o-viet-nam-6720, truy cập lúc 12:35 ngày 05 tháng 3 năm 2023.

[25] GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên, Lịch sử và Giáo dục Lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 306 - 307.

[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3 (1930-1945) tr. 221.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3 (1930-1945), tr. 229 - 230.

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3 (1930-1945), tr. 229.

[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 14 (1963-1965), tr. 577.

[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14 (1963-1965), tr. 615.

[31] Nguồn: https://daihoi13.dangcongsan.vn/multimedia/bai-5-khat-vong-hung-cuong-va-hien-thuc-hoa-o-viet-nam-6720, truy cập lúc 12:43 ngày 05 tháng 3 năm 2023.

[32] Theo GS, Anh hùng lao động Vũ Khiêu, “Danh nhân là những người trong lúc sinh thời đã có nhiều đóng góp cho đất nước, cho quê hương. Từ khi qua đời, họ vẫn tiếp tục sống trong lòng mọi người, được mọi người quý trọng và noi gương” (Theo: GS Vũ Khiêu, Hội thảo các Phương pháp sử dụng tiểu sử danh nhân phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các nước châu Á, Nxb. Đại học Sư phạm, 2003, tr. 55). Còn GS, TS, NGND Phan Ngọc Liên thì có quan điểm cho rằng “Danh nhân là người có tài, đức nổi tiếng trong lịch sử, được ghi công và nhân dân truyền tụng” (Phan Ngọc Liên (chủ biên), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Giáo dục, 2005, tr. 133). Có thể thấy, Danh nhân là những người kiệt xuất, tài năng, có nhân cách đáng kính, nổi tiếng trong lịch sử. Danh nhân văn hóa là những người có nhiều công trình để lại cho hậu thế, các nghiên cứu hay sự sáng tạo của họ có ảnh hưởng lâu dài, lớn lao đối với nền văn hóa dân tộc. Những đóng góp của họ nhiều khi không chỉ dừng trong biên giới quốc gia mà còn cả ở tầm khu vực hay quốc tế. Nhân cách, sự nghiệp của các danh nhân được cộng đồng ghi nhận, nhân dân kính trọng và tôn vinh.

[33] GS Trần Quốc Vượng, Sđd, tr. 42 - 54.

[34] GS Trần Quốc Vượng, Sđd, tr. 54.

[35] PGS, TS Đào Tuấn Thành, “Suy nghĩ về việc đẩy mạnh khai thác giá trị của các danh nhân văn hóa trong giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam”, bài đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghiên cứu danh nhân một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện Nghiên cứu Danh nhân, Trung ương Hội Khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam, Hà Nội, 2023, tr. 101.

[36] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “Phát huy tinh thần Điện Biên Phủ trong công tác khuyến học” (Bài nói chuyện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Chủ tịch danh dự của Hội Khuyến học Việt Nam tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam lần thứ 6 (khóa II) từ ngày 10 đến ngày 12/3/2004 tại Hà Nội. Dẫn theo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự nghiệp khoa học, giáo dục và đào tạo, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2014, tr. 287.

[37] Dẫn theo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự nghiệp khoa học, giáo dục và đào tạo, Sđd, tr. 285.