Tỉnh Quảng Ninh triển khai công tác đối ngoại trong tình hình mới
TCCS - Quảng Ninh là tỉnh có vị trí trọng yếu về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ví như “một Việt Nam thu nhỏ”; là địa phương duy nhất trong cả nước có biên giới trên bộ, trên biển với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, Quảng Ninh là điểm nút quan trọng trong các khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc”, hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, khu vực hợp tác liên vùng vịnh Bắc Bộ mở rộng và trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (CAFTA).
Công tác đối ngoại của tỉnh trong tình hình mới
Bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, tỉnh Quảng Ninh luôn có sự sáng tạo, chủ động đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường hội nhập kinh tế và phát triển quan hệ đối ngoại. Công tác đối ngoại hiệu quả cùng với chính sách mở cửa và hội nhập đã tạo nên sự bứt phá trong huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa Quảng Ninh trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của miền Bắc, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (giai đoạn 2015 - 2020) đạt 10,7%, cao hơn so với mức bình quân chung cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 6.700 USD, gấp hơn 2 lần mức bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo đúng định hướng chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Du lịch ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh ngày càng tăng, chiếm gần 40% tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị, du lịch, dịch vụ có bước phát triển đột phá thúc đẩy liên kết vùng và hội nhập quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu tại khu vực biên giới chuyển dần từ tiểu ngạch sang chính ngạch; bước đầu hình thành thương mại điện tử.
Năm 2021, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến còn phức tạp, khó lường, với những biến chủng mới có tốc độ lây lan nhanh, nguy hiểm hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là ngành du lịch, dịch vụ - ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Song với sự nỗ lực, cố gắng, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang, tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đạt được những kết quả nổi bật, trở thành điểm sáng, địa phương điển hình về phòng, chống dịch bệnh COVID-19, giữ vững địa bàn “an toàn - ổn định - phát triển” và thực hiện thành công “mục tiêu kép”. Trong điều kiện ngành than, dịch vụ, du lịch vốn là ngành kinh tế mũi nhọn gặp khó khăn, nhưng tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh Quảng Ninh trong năm 2021 đạt 10,28%, đứng thứ hai toàn quốc, cao gấp nhiều lần mức bình quân chung cả nước, đưa Quảng Ninh trở thành một trong hai địa phương ở phía Bắc trong 6 năm liền đạt mức tăng trưởng hai con số. Cải cách hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tiếp tục được cải thiện: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) dẫn đầu cả nước trong 4 năm liên tiếp (2017 - 2020), Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) dẫn đầu các tỉnh, thành phố trong hai năm liên tiếp (2019 - 2020) và năm 2020, lần đầu tiên tỉnh dẫn đầu toàn quốc về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI). Tỉnh Quảng Ninh hiện là địa phương duy nhất dẫn đầu cả nước cùng lúc ở cả bốn chỉ số (PCI, PAR Index, SIPAS, PAPI), thu hút đầu tư ngoài ngân sách tăng cao, đạt 361.143 tỷ đồng, trong đó thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có bước đột phá, đạt trên 1 tỷ USD, gấp 2,67 lần so với cùng kỳ năm 2020. Trên địa bàn tỉnh hiện có 145 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 8,15 tỷ USD; thị trường xuất khẩu mở rộng tới trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục.
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được bảo đảm, chủ quyền biên giới, biển, đảo Tổ quốc được giữ vững, không để xảy ra các tình huống bị động, bất ngờ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được mở rộng và đi vào chiều sâu. Có khả năng ứng phó có hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là dịch bệnh, thiên tai.
Hoạt động đối ngoại của tỉnh được tăng cường, mở rộng, kể cả ngoại giao Đảng, chính quyền và đối ngoại nhân dân; tích cực mở rộng hợp tác với đối tác mới, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác; xác định đối tác chiến lược, đối tác tiềm năng để chủ động hợp tác; thống nhất, linh hoạt, toàn diện, phù hợp với tình hình thực tế, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đã thiết lập quan hệ đối ngoại với 15 địa phương nước ngoài, có quan hệ kinh tế, thương mại với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ và với nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực, quốc tế. Trong đó nổi bật như: Diễn đàn hợp tác du lịch Đông Á (EATOF); Hợp tác hai hành lang - một vành đai Việt Nam - Trung Quốc; Câu lạc bộ các vịnh đẹp thế giới; Tam giác Di sản Udonthani (Thái Lan) - Luangprabang (Lào) và Quảng Ninh (Việt Nam)... Với vị trí địa lý tiếp giáp Trung Quốc, tỉnh Quảng Ninh luôn chú trọng phát triển quan hệ giao lưu hữu nghị, hợp tác với các địa phương của Trung Quốc. Đặc biệt ghi dấu ấn quan trọng trong quan hệ đối ngoại của tỉnh phải kể đến quan hệ với các địa phương của nước láng giềng Trung Quốc, nhất là Khu tự trị dân tộc Choang (Quảng Tây), hai bên đã hợp tác toàn diện ở các cấp, các ngành trên cả bình diện song phương và đa phương. Tỉnh ủy Quảng Ninh và Khu ủy Quảng Tây đã ký kết bản thỏa thuận về tăng cường giao lưu hữu nghị giữa các tổ chức cơ sở đảng địa phương và ký biên bản hội đàm giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn với Khu ủy Quảng Tây. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác giữa hai Tỉnh - Khu, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để hai bên thúc đẩy hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh đẩy mạnh quan hệ hợp tác với tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) về lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu xây dựng đặc khu kinh tế; cơ chế hợp tác trong hành lang kinh tế Vân Nam - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và Quảng Ninh; quan hệ với các địa phương khác của Trung Quốc như Hải Nam, Phúc Kiến, Chiết Giang... Tính đến nay, tỉnh Quảng Ninh đã ký 17 thỏa thuận cấp tỉnh với các địa phương của Trung Quốc. Thông qua các quan hệ hợp tác này, tỉnh Quảng Ninh từng bước xác lập vị trí “cửa ngõ, cầu nối” trong mắt xích hợp tác giữa Việt Nam - ASEAN - Trung Quốc. Vị trí này đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại biên giới; góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực biên giới hai bên. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh đã cụ thể hóa phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước nhằm tăng cường thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị với ba địa phương Bắc Lào trên tinh thần quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào; đẩy mạnh phát triển quan hệ với các địa phương và đối tác Nhật Bản, Hàn Quốc; ký kết quan hệ hợp tác hữu nghị với các đối tác tiềm năng như Irkurtsk (Nga), Kalovy Vary (Séc)…
Đối ngoại văn hóa đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thực hiện chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn diện trên cơ sở ba trụ cột (kinh tế, văn hóa, chính trị), tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức các sự kiện văn hóa đối ngoại trên địa bàn, như Lễ hội Carnaval Hạ Long, Hội chợ “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), Tuần lễ du lịch Hạ Long, Lễ hội Hoa Anh Đào - Mai Vàng Yên Tử; duy trì hát đối trên sông Bắc Luân tại Hội chợ thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc; duy trì Hội thi tiếng hát hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc trên sông biên giới; đẩy mạnh hợp tác với các cơ quan báo, đài của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), Gangwon (Hàn Quốc); trao đổi thông tin giữa Đài Phát thanh truyền hình Quảng Ninh và Quảng Tây cùng xuất bản Đặc san Hoa Sen phát hành trên lãnh thổ hai quốc gia... qua đó tăng cường sự hiểu biết và gắn bó giữa người dân tỉnh Quảng Ninh và nhân dân các nước. Những kết quả đạt được trong công tác đối ngoại văn hóa trở thành nguồn “sức mạnh mềm” quan trọng, từng bước khẳng định vị trí trong công tác đối ngoại thời kỳ mới; góp phần thu hút số lượng lớn du khách nước ngoài đến tham quan, du lịch và tìm hiểu cơ hội đầu tư, hợp tác trên các lĩnh vực; hình ảnh, vị thế của tỉnh được nâng cao ở trong nước và trên thế giới...
Từ năm 2020 đến nay, trước những tác động nghiêm trọng của dịch bệnh COVID-19, công tác đối ngoại của tỉnh, nhất là đối ngoại biên giới đã được triển khai theo hướng linh hoạt, sáng tạo. Tỉnh đã phối hợp tổ chức đón, bố trí địa điểm cách ly phòng, chống dịch bệnh COVID-19 cho gần 33.000 công dân Việt Nam và hơn 14.000 người nước ngoài là đoàn các nhà ngoại giao, nhà đầu tư, nhà quản lý, chuyên gia, lao động kỹ thuật cao người nước ngoài đến Việt Nam làm việc qua sân bay quốc tế Vân Đồn, qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái bảo đảm chu đáo, an toàn đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trên cả nước.
Bên cạnh những cơ hội, thuận lợi và những kết quả đạt được, việc triển khai đường lối đối ngoại tại tỉnh Quảng Ninh còn có nhiều khó khăn, thách thức:
Một là, Quảng Ninh có chung đường biên giới trên bộ và trên biển (9/13 địa phương giáp biển) đòi hỏi phải nâng cao năng lực “xử lý” các tình huống nhạy cảm. Bên cạnh đó, tỉnh cũng là trung tâm Phật giáo của cả nước, là nơi sinh sống của 22 dân tộc anh em và số lượng lớn người lao động nước ngoài. Các vấn đề an ninh phi truyền thống liên quan đến dịch bệnh, nước biển dâng… tác động trực tiếp tới tỉnh. Có thể nói, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của tỉnh Quảng Ninh luôn phải đối diện với thách thức khi đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng: vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; vừa chủ động góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ một cách thường xuyên, trực tiếp ở một địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hai là, với vị trí trong các khu hợp tác Hai hành lang một vành đai kinh tế, cửa ngõ ASEAN - Trung Quốc, Hành lang Nam Ninh - Singapore, Hợp tác kinh tế vịnh Bắc Bộ mở rộng, Tiểu vùng sông Mekong mở rộng... được đánh giá là chiến lược, quan trọng nhưng chưa được khai thác hiệu quả tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
Ba là, hiệu quả của khu vực đầu tư nước ngoài còn thấp; thu hút FDI chưa có nhiều đột phá, chưa tương xứng với thế mạnh của tỉnh.
Bốn là, hợp tác quốc tế trong quản lý di sản, quảng bá, xúc tiến du lịch, đầu tư, thương mại... chưa thực sự hiệu quả.
Năm là, vị thế của doanh nghiệp Quảng Ninh trong thị trường quốc tế còn khiêm tốn; sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm, nhất là sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế; chưa có nhiều sản phẩm có thương hiệu mạnh, đối với cả trong và ngoài nước.
Sáu là, thương mại biên giới phát triển chưa bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào chính sách biên mậu và yếu tố bên ngoài. Công tác quản lý biên giới còn gặp nhiều khó khăn.
Một số nhiệm vụ trong thời gian tới
Trong thời gian tới, bối cảnh quốc tế, khu vực trong nước và trong tỉnh có nhiều cơ hội mới cùng những khó khăn, thách thức đan xen, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV xác định mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế theo hướng “Chủ động, tích cực, sáng tạo triển khai toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo thế đan xen lợi ích trên địa bàn tỉnh và từng địa phương. Tăng cường thông tin tuyên truyền đối ngoại, tập trung quảng bá hình ảnh mảnh đất, con người Quảng Ninh, Việt Nam. Nâng cao năng lực hội nhập cho các chủ thể là doanh nghiệp và người dân. Triển khai thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do. Tăng cường hợp tác và hữu nghị với các địa phương của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển”. Theo đó, tập trung vào những nhiệm vụ then chốt cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Triển khai hiệu quả các thỏa thuận hữu nghị, hợp tác mà tỉnh Quảng Ninh đã ký kết với một số địa phương của nước ngoài theo hướng chuyển từ “hiểu biết” sang “tin cậy”, từ “kết nghĩa” sang “hợp tác thực chất, cùng có lợi”; nghiên cứu mở rộng việc ký kết thỏa thuận thiết lập quan hệ hữu nghị và giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực với tỉnh, thành phố có điều kiện tương đồng hoặc có lợi thế so sánh khác biệt thuộc các nước khu vực ASEAN, Đông Bắc Á, châu Âu, châu Mỹ… để thúc đẩy đầu tư, kết nối hàng không, xây dựng các tuyến du lịch. Tiếp tục phát huy hiệu quả các thỏa thuận quốc tế đã có để tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức về quản lý và ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, du lịch, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường và các lĩnh vực khác. Theo đó, cụ thể hóa có hiệu quả các biên bản thỏa thuận hữu nghị bằng những chương trình hợp tác cụ thể; mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác lớn, quan trọng, phát triển quan hệ với các đối tác mới, đối tác tiềm năng ở khu vực, địa bàn trọng điểm, như các nước trong khối ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Đông, châu Âu và Bắc Mỹ…
Hai là, tăng cường hợp tác và hữu nghị với các địa phương của Trung Quốc.
Trọng tâm là thúc đẩy hợp tác toàn diện với Khu tự trị Dân tộc Choang (Quảng Tây), tập trung vào các lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch, kết nối hạ tầng giao thông, quản lý cửa khẩu, quản lý biên giới, quản lý lao động qua biên giới, bảo vệ môi trường, y tế, giáo dục - đào tạo, nông nghiệp, giao lưu nhân dân, giao lưu văn hóa… Phát huy tốt vai trò của các cơ chế hợp tác hiện có với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) theo hướng thực chất, đôi bên cùng có lợi. Tăng cường trao đổi, hội đàm ở các cấp nhằm không ngừng tăng cường lòng tin, sự hiểu biết lẫn nhau. Qua đó, kịp thời nắm bắt, cập nhật các chính sách, quy định xuất nhập khẩu hàng hóa và xuất nhập cảnh của hai bên, bảo đảm tính ổn định khi triển khai các quy định, chính sách mới, đặc biệt liên quan đến vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa chính ngạch qua các cửa khẩu của tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Thúc đẩy quan hệ hợp tác thiết thực, hiệu quả đi vào chiều sâu với các đối tác truyền thống như: Phúc Kiến, Vân Nam, Quảng Đông (Trung Quốc), tập trung vào những lĩnh vực thuộc thế mạnh của các địa phương hai bên, như triển khai các hợp tác về y tế, giáo dục, văn hóa, du lịch; nghiên cứu sớm mở đường bay kết nối các tuyến du lịch giữa Vân Nam, Phúc Kiến (Trung Quốc) và Quảng Ninh (Việt Nam); khai thác có hiệu quả tuyến du lịch đường biển Hạ Long - Cảng Phòng Thành, Hạ Long - Bắc Hải; tăng cường trao đổi phát triển hợp tác logistics qua biên giới, các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, nhất là các sản phẩm nông, lâm, thủy sản mà hai bên có lợi thế.
Ba là, đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Triển khai có hiệu quả các nội dung hợp tác nhằm tranh thủ các cơ hội trong các chương trình hợp tác về du lịch giữa Trung Quốc với ASEAN, cụ thể: Chương trình hợp tác phát triển du lịch Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS); Chương trình hợp tác du lịch giữa tỉnh Quảng Tây, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) với tỉnh Quảng Ninh; Phát triển Du lịch giữa ba tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) - Luang Prabang (Lào) - Udon Thani (Thái Lan) trong khuôn khổ Dự án Tam giác di sản Vịnh Hạ Long - Luang Prabang - Ban Chiang với mục tiêu cùng nhau thúc đẩy và tiếp thị điểm đến du lịch trong Tam giác di sản “ba di sản - một điểm đến”; hợp tác du lịch trong khuôn khổ liên khu vực Đông Bắc Á (EATOF). Tăng cường hợp tác, liên kết vùng với địa phương các nước có chiến lược thương mại, du lịch phù hợp với Hiệp định ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) để phát huy tối đa vai trò cửa ngõ, cầu nối hợp tác quan trọng ASEAN với Trung Quốc và thế giới. Tích cực triển khai hoạt động liên kết vùng trong khuôn khổ “Hai hành lang - Một vành đai kinh tế” Việt Nam - Trung Quốc. Hình thành mối quan hệ chiến lược với các đối tác có uy tín, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới với hình thức và mức độ phù hợp nhằm tạo thế đan xen về lợi ích và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bốn là, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư tạo cơ sở thu hút hiệu quả nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước. Theo đó, hằng năm, giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về Chỉ số PCI, Chỉ số PAR Index, Chỉ số SIPAS và Chỉ số PAPI. Nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước Chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông của tỉnh (ICT Index). Ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy phát triển giáo dục thông minh, sản xuất thông minh, quản lý thông minh, xây dựng chính quyền điện tử, đô thị thông minh, đô thị xanh. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, ưu tiên các dự án chế biến, chế tạo có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Năm là, phát huy lợi thế địa - kinh tế chiến lược của tỉnh Quảng Ninh.
Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, dịch vụ khai thác hiệu quả đường cao tốc Hạ Long - Móng Cái; đầu tư kết cấu hạ tầng, đường giao thông biên giới kết nối các cửa khẩu phụ, điểm thông quan; phát triển và hoàn thiện hệ thống hạ tầng dịch vụ xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu (hệ thống kho, bãi, cảng cạn ICD, hệ thống trung tâm logistics, hệ thống chợ biên giới, ...). Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất để khai thác có hiệu quả các chương trình hợp tác kinh tế - thương mại với Trung Quốc khi Đề án Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Móng Cái (Việt Nam) - Đông Hưng (Trung Quốc) có hiệu lực và đi vào hoạt động. Phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa hiện đại của khu vực. Đẩy mạnh các liên kết, phối hợp về hoạt động thương mại biên giới giữa tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), cùng giải quyết các vấn đề phát sinh và mở rộng mức độ thuận lợi hóa thương mại qua biên giới hai nước. Nhanh chóng hướng tới thực hiện cơ chế quản lý, chính sách nhất quán, rõ ràng, đồng bộ, ổn định về hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết vùng với địa phương các nước có chiến lược thương mại, du lịch phù hợp với Hiệp định ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) để phát huy tối đa vai trò cửa ngõ, cầu nối hợp tác quan trọng ASEAN với Trung Quốc và thế giới. Tích cực triển khai hoạt động liên kết vùng trong khuôn khổ “Hai hành lang - Một vành đai kinh tế” Việt Nam - Trung Quốc. Hình thành mối quan hệ chiến lược với các đối tác có uy tín, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới với hình thức và mức độ phù hợp nhằm tạo thế đan xen về lợi ích và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sáu là, đẩy mạnh tuyên truyền hiệu quả hội nhập quốc tế cho doanh nghiệp và người dân.
Tăng cường thông tin tuyên truyền, phổ biến, cung cấp đầy đủ, cập nhật các thông tin về tình hình hội nhập và hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp nhận diện được những thách thức, tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế. Cập nhật thường xuyên, kịp thời những chủ trương, chính sách mới về hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt cập nhật các FTA thế hệ mới để doanh nghiệp và người dân chuẩn bị các điều kiện cần thiết, chủ động nghiên cứu, đánh giá khả năng tham gia các FTA với các đối tác mới nhằm tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của tỉnh. Chú trọng đào tạo, tập huấn cho các doanh nghiệp về cơ hội và thách thức của các FTA, các quy định, chuẩn mực quốc tế và các thể chế đa phương. Tuyên truyền mạnh mẽ, hướng dẫn, hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo “công dân điện tử”, “công dân số”, để người dân có thể sử dụng thông thạo được các dịch vụ trực tuyến, đồng thời biết cách sử dụng các công cụ, mạng xã hội hợp lý, an toàn và tuân thủ pháp luật. Xây dựng hình ảnh “công dân tỉnh Quảng Ninh hội nhập và phát triển”; thúc đẩy việc học tập và thực hành ngoại ngữ trong mọi tầng lớp nhân dân; triển khai có hiệu quả Đề án “vận động thanh thiếu nhi tham gia học tập ngoại ngữ”; tăng cường đào tạo các kỹ năng mềm, chuẩn bị “hành trang hội nhập” cho thanh thiếu niên.
Bảy là, xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Tập trung đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, bản lĩnh chính trị - tư tưởng, tinh thần trách nhiệm và nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; có “tư duy toàn cầu” để nắm bắt những thay đổi của xu thế quốc tế và thực tiễn hội nhập quốc tế của nước ta, vừa nhận thức rõ hơn giá trị cốt lõi cũng như thế mạnh của tỉnh; có khả năng thích ứng linh hoạt với chuyển biến của tình hình và các yếu tố mới như ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại giao số, ngoại giao trực tuyến. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, an ninh và phát triển, không để bị động, bất ngờ; chủ động đề xuất các chiến lược và giải pháp.
Dưới sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy và sự quản lý thống nhất của chính quyền, các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế của tỉnh Quảng Ninh sẽ được đẩy mạnh trên cả ba trụ cột: Ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, kết hợp với công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Hoạt động đối ngoại Đảng, đối ngoại chính quyền và đối ngoại nhân dân sẽ đồng hành và phối hợp nhịp nhàng, góp phần huy động sức mạnh tổng hợp, đưa lĩnh vực đối ngoại của tỉnh Quảng Ninh đi đến những thắng lợi mới, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển nhanh, bền vững của tỉnh trong tình hình mới, góp phần vào sự phát triển công tác đối ngoại chung của cả nước./.
Dịch bệnh COVID-19 và chính sách tài khóa của Việt Nam  (27/05/2022)
Tác động của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam và một số giải pháp ứng phó  (27/05/2022)
Xác định đúng động lực cơ bản cho Quảng Ninh phát triển  (27/05/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay