Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2015
CHÍNH PHỦ
Số: 526/BC-CP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2015 |
BÁO CÁO
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015
và dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2016
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội khóa XIII
Căn cứ chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, Chính phủ trình Quốc hội báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 như sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2015
Tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10 tháng 11 năm 2014 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 với mục tiêu tổng quát là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện mạnh mẽ các đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2014. Tiếp tục phát triển các lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định giao kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và kế hoạch đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2015; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015.
Năm 2015 là năm cuối, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2011-2015, năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII; đây cũng là năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn, như: 70 năm thành lập nước, 40 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp. Tranh chấp chủ quyền biển đảo trong khu vực và trên Biển Đông ngày càng gay gắt; kinh tế thế giới phục hồi chậm. Giá dầu thô giảm mạnh, tình hình chính trị thế giới tồn tại nhiều bất ổn, xung đột tại Ucraina, vấn đề nhà nước hồi giáo IS, tình hình xung đột vũ trang ở Syria dẫn tới làn sóng di cư, tị nạn có quy mô lớn nhất từ sau thế chiến thứ II đến Châu Âu, quan hệ giữa các nước lớn trên thế giới tiếp tục căng thẳng; cùng với sự suy giảm kinh tế Trung Quốc, sự phá giá mạnh đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế nước ta,...
Quán triệt các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, của doanh nghiệp và toàn dân, chúng ta đã từng bước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 đã đề ra.
Dưới đây là đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm, dự báo khả năng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015:
I. VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2015
Tình hình kinh tế - xã hội trong 9 tháng đầu năm 2015 tiếp tục đà phục hồi, có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức.
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp
a) Về giá cả thị trường: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 0,4% so với tháng 12/2014, bình quân 9 tháng đầu năm tăng 0,74% so với cùng kỳ năm trước. Đây là năm có mức tăng giá thấp nhất so với cùng kỳ 15 năm qua. Chỉ số giá tăng thấp chủ yếu do sự sụt giảm mạnh của giá thế giới, nhất là giá dầu thô giảm tới 50% so với năm trước kéo theo sự giảm giá của các hàng hóa khác; nguồn cung hàng hóa dồi dào ở trong nước bao gồm cả lương thực, thực phẩm, hàng công nghiệp và dịch vụ. Không có biểu hiện giảm phát do sức mua và tổng cầu tiếp tục tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Lòng tin của người tiêu dùng vào sự phục hồi kinh tế được nâng lên; thể hiện rõ nét nhất là chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ (đã loại trừ yếu tố giá) tăng 9,1%, cao hơn mức tăng 7,3% của cùng kỳ năm trước, cho thấy sức mua và tổng cầu tiếp tục được cải thiện.
Lạm phát cơ bản (đã loại trừ biến động giá của nhóm lương thực, thực phẩm, năng lượng và giá các mặt hàng do nhà nước quản lý, như dịch vụ y tế, giáo dục,...) bình quân 9 tháng tăng 2,15% so với cùng kỳ năm trước.
b) Về tiền tệ, tín dụng, tỷ giá ngoại tệ: tính đến ngày 20/9, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 8,9% (cùng kỳ năm 2014 tăng 9,79%). Tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 10,78% (cùng kỳ năm 2014 tăng 6,62%), cao hơn gần 1% so với tốc độ tăng tiền gửi; cho thấy có sự cải thiện khá rõ nét trong việc khai thông nguồn vốn tín dụng cho phát triển đầu tư, kinh doanh (trong thời gian kinh tế suy giảm tiến độ tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so với tốc độ huy động tiền gửi).
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay bằng VND tương đối ổn định. Thực hiện các chính sách hỗ trợ tín dụng và lãi suất cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên, như phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, giảm nghèo,... đạt kết quả khá tốt.
Về xử lý tác động của sự phá giá đồng nhân dân tệ: Ngay sau khi Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh kịp thời tỷ giá giữa VND và USD, phù hợp với diễn biến thị trường, cụ thể: mở rộng biên độ tỷ giá lên +/-2% trong ngày 12/8, sau đó tăng tỷ giá 1% (lần tăng thứ 3 kể từ đầu năm[1]) và nới biên độ lên +/-3% trong ngày 19/8 nhằm giảm bớt sức ép tâm lý thị trường. Như vậy, sau các lần điều chỉnh tỷ giá và nới biên độ, so với cuối năm 2014, đồng tiền nước ta đã giảm giá khoảng 5% so với USD, tương đương với giảm giá của đồng nhân dân tệ.
Việc điều chỉnh tăng và nới rộng biên độ dao động của tỷ giá ngoại tệ là giải pháp đúng đắn, phù hợp để giảm tác động tiêu cực của Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ và hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, do tác động tâm lý nên đã xảy ra hiện tượng tỷ giá tăng kịch trần cho phép, có ảnh hưởng đến lãi suất ở một số thời điểm. Nhưng sau khi triển khai thực hiện các giải pháp ứng phó chủ động theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tỷ giá và thị trường ngoại tệ đã ổn định trở lại và dao động trong biên độ cho phép.
c) Về thị trường chứng khoán: sau khi Trung Quốc giảm giá đồng NDT, cộng với diễn biến rối loạn trước đó của thị trường chứng khoán Trung Quốc, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 9/10 phiên giảm điểm, trong đó, riêng ngày 24/8, thị trường đã giảm 5,28%. Đây cũng chủ yếu là do yếu tố tâm lý; đến nay đã ổn định trở lại.
d) Về thu, chi NSNN
Tổng thu NSNN thực hiện 9 tháng ước đạt 683 nghìn tỷ đồng, bằng 75% dự toán năm, tăng 7% so với cùng kỳ; trong đó thu nội địa đạt 504,32 nghìn tỷ đồng, bằng 79% dự toán, tăng 17,1% so với cùng kỳ; thu dầu thô và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt thấp, chỉ bằng 55,7% và 70,5% dự toán năm, chủ yếu do giá dầu thô và giá của một số mặt hàng xuất nhập khẩu giảm mạnh. Riêng giá dầu thô từ đầu Quý 3 đến nay, có biến động theo chiều hướng có tăng lên và hiện dao động trong khoảng 46 USD/thùng.
Tổng chi NSNN thực hiện 9 tháng ước đạt 823,97 nghìn tỷ đồng, bằng 71,8% dự toán, tăng 7,8% so với cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 65,3%, chi trả nợ và viện trợ bằng 76,5%; chi thường xuyên đạt 75% dự toán. Bội chi NSNN ước khoảng 140,97 nghìn tỷ đồng, bằng 62,4% dự toán năm.
Giá dầu thô xuất khẩu của nước ta ước tính bình quân cả năm 2015 khoảng 56,7 USD/thùng. Các kịch bản về tác động của việc giảm giá dầu đến thu NSNN đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Tổ điều phối vĩ mô xây dựng từ đầu năm và đã thực hiện các giải pháp ứng phó, như thúc đẩy sản xuất kinh doanh, chống thất thu, chống gian lận thương mại,... tăng nguồn thu nội địa, bù giảm thu dầu thô và xuất nhập khẩu để bảo đảm tổng thu ngân sách nhà nước không bị giảm và bảo đảm cân đối tổng thể thu chi NSNN theo đúng kế hoạch đã đề ra.
đ) Về đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng đầu năm ước thực hiện đạt 909,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước đạt 9,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 3,2%). Tổng vốn đăng ký ước đạt 17,16 tỷ USD, tăng 53,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 25,5%), trong đó: vốn đăng ký cấp mới tăng 44,5%; vốn đăng ký tăng thêm tăng 72,6%. Có 1.432 dự án cấp mới, tăng 24,3% so với cùng kỳ; 461 lượt dự án tăng vốn, tăng 10,6%[2].
Vốn ODA và vay ưu đãi lũy kế giải ngân 9 tháng đầu năm ước đạt 3.300 triệu USD.
e) Về xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm ước đạt 120,7 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2014 (cùng kỳ tăng 14,1%); trong đó: xuất khẩu khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 85,2 tỷ USD[3], tăng 15,8%; khu vực doanh nghiệp trong nước giảm 2,7% (cùng kỳ tăng 14,2%) do các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của khu vực doanh nghiệp này (nông, thủy sản) giảm cả về lượng lẫn giá xuất khẩu.
Trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng khoảng 19,2% so với cùng kỳ; nông, lâm, thủy sản giảm 9,9% và nhiên liệu, khoáng sản giảm 45,5%. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm so với cùng kỳ 2014 chủ yếu do sản lượng và giá xuất khẩu giảm; riêng xuất khẩu dầu thô: tăng 4,7% về lượng nhưng giảm 47,4% về kim ngạch do giá giảm 49,8%. So với các nước, một số sản phẩm xuất khẩu của nước ta đứng trong tốp đầu của thế giới, như: gạo, cà phê, tiêu, hạt điều, dệt may,…
Tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm ước đạt 124,6 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2014 (cùng kỳ tăng 11,1%); trong đó: khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 73,3 tỷ USD, tăng 20,7%; khu vực doanh nghiệp trong nước tăng 9,7%.
Kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ, chủ yếu ở nhóm hàng thiết yếu, chiếm tỷ trọng 88,3% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng là thiết bị máy móc, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ đầu tư, sản xuất và xuất khẩu tăng cao[4].
Về cân đối xuất - nhập khẩu: 9 tháng đầu năm nhập siêu khoảng 3,9 tỷ USD, bằng 3,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong giới hạn Quốc hội cho phép dưới 5%); trong đó: khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu gần 11,9 tỷ USD[5]; khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu khoảng 15,8 tỷ USD.
Để khắc phục tác động tiêu cực của việc phá giá đồng Nhân dân tệ, Chính phủ đã chỉ đạo chủ động thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, nhất là những mặt hàng không thiết yếu và điều chỉnh giảm giá VND so với USD từ đầu năm đến nay khoảng 5% (bao gồm cả biên độ dao động), để thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
g) Về tác động đến tăng trưởng kinh tế: nước ta nhập khẩu lớn từ Trung Quốc với cơ cấu nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu và máy móc thiết bị, do vậy, việc phá giá đồng Nhân dân tệ cùng với giá xăng, dầu xuống thấp, tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hàng hóa nước ta sẽ gặp nhiều bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc, nhất là mặt hàng tiêu dùng. Việc phá giá đồng Nhân dân tệ, cùng với việc giảm giá dầu thô và các mặt hàng nông sản xuất khẩu có tác động ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, với việc chủ động khắc phục các tác động tiêu cực nói trên, nền kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi và phát triển. Tăng trưởng kinh tế trong Quý 3 cao hơn nhiều so với Quý 2 và dự báo cả năm sẽ vượt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Như vậy, trước những biến động kinh tế thế giới và khu vực và với những giải pháp, chính sách của Chính phủ vừa qua, về tổng thể chúng ta vẫn kiểm soát tốt kinh tế vĩ mô, các chỉ tiêu về tăng trưởng, lạm phát, thu ngân sách, bội chi NSNN, hoạt động xuất nhập khẩu cũng như sản xuất kinh doanh vẫn bảo đảm như mục tiêu đã đề ra.
Tuy nhiên, việc phá giá đồng NDT và sự trì trệ của nền kinh tế Trung quốc, Quốc gia lớn thứ hai về quy mô nền kinh tế; cùng với những khó khăn thách thức khi nền kinh tế đi vào hội nhập sâu, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới, những khó khăn nội tại của nền kinh tế, như: nợ công tăng lên, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu ngân hàng thương mại yếu kém, cổ phần hóa chậm, khó khăn của doanh nghiệp trong nước,... sẽ còn ảnh hưởng và tác động tiêu cực nhiều mặt đến nền kinh tế nước ta, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để có giải pháp ứng phó chủ động, có hiệu quả hơn.
2. Về tình hình phát triển các ngành, lĩnh vực
a) Tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 5 năm qua:
Nền kinh tế nước ta phục hồi khá rõ nét và đạt tốc độ tăng trưởng cao so với kế hoạch đề ra và cao hơn so với dự báo trước đây. Tốc độ tăng GDP 9 tháng đầu năm đạt 6,5%, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ 4 năm trước (cùng kỳ năm 2011: 6,03%; 2012: 5,1%; 2013: 5,14%; 2014: 5,53%); trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 2,08% (cùng kỳ năm 2014: 2,94%); khu vực công nghiệp và xây dựng ước tăng 9,57% (cùng kỳ năm 2014: 5,75%); dịch vụ ước tăng 6,17% (cùng kỳ năm 2014: 5,94%).
Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng nhanh sau từng Quý. GDP Quý I tăng 6,12%, Quý II tăng 6,47% và Quý III tăng 6,81%, cao hơn mức tăng cùng kỳ 4 năm trước (Quý III/2011: 6,21%; Quý III/2012: 5,39%; Quý III/2013: 5,54%; Quý III/2014: 6,07%). Dự báo cả năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 6,5% là mức tăng cao nhất trong 5 năm qua.
Cụ thể tăng trưởng GDP 9 tháng của từng khu vực như sau:
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,08% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm từ 2011 đến nay. Khu vực này tăng trưởng thấp chủ yếu do các yếu tố khách quan, như: thời tiết không thuận, sản lượng đạt thấp, giá cả nông sản, nhất là giá nông sản xuất khẩu giảm mạnh; năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh thấp, nhất là đối với nông sản xuất khẩu cũng gây thêm khó khăn cho phát triển sản xuất của khu vực này.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,57% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 4 năm qua (9 tháng năm 2011: 7,8%, 2012: 7,53%, 2013: 4,88%, 2014: 5,75%); trong đó ngành công nghiệp tăng 9,69%, cao hơn nhiều so với mức tăng các năm qua (2011: 9,54%, 2012: 8,5%, 2013: 4,8%, 2014: 5,58%). Đặc biệt công nghiệp chế biến chế tạo, giá trị tăng thêm tăng 10,15% (năm 2014 tăng 7,09%). Ngành xây dựng: giá trị tăng thêm tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, đây là tỷ lệ tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ của ngành này kể từ năm 2011 đến nay (9 tháng năm 2011 giảm 0,01%; 2012 tăng 2,78%, 2013 tăng 5,31%, 2014 tăng 6,61%); chủ yếu do khu vực dân cư xây nhà để ở tăng 19%, xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng, như: đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng,... tăng 21%.
Khu vực dịch vụ tăng 6,17%, cao hơn cùng kỳ năm trước là 5,94%.
Động lực tăng trưởng chủ yếu của năm 2015 chủ yếu do: (1) sự phục hồi và tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; (2) sự tăng nhanh của sản xuất và xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhờ đầu tư lớn, khả năng cạnh tranh cao và không bị ảnh hưởng của việc giảm giá xuất khẩu nông sản do ít đầu tư vào khu vực này; (3) tiêu dùng trong nước, sức mua và tổng cầu được cải thiện nhờ lòng tin vào ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi tăng trưởng kinh tế và lạm phát thấp; và (4) là những tác động bước đầu của việc triển khai thực hiện các luật mới được Quốc hội thông qua có liên quan đến cải thiện môi trường kinh doanh, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi; các hiệp định FTA được ký kết và việc triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh theo Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ.
b) Về sản xuất công nghiệp: Tính chung 9 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 9,8%, cao hơn cùng kỳ các năm trước (năm 2013: 5,3%; năm 2014: 6,7%).
Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục phục hồi mạnh mẽ: so với cùng kỳ năm trước, IIP ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,2%, cao hơn mức tăng cùng kỳ các năm trước: năm 2013 tăng 6,7%; 2014 tăng 8,3%.
Riêng về sản lượng dầu thô khai thác trong nước: tính chung 9 tháng đầu năm ước đạt 12,53 triệu tấn, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
c) Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và giá xuất khẩu giảm, nhất là những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, như gạo, cà phê, cao su, thủy sản,... đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và thu nhập của nông dân. Ngành nông nghiệp, nhất là trồng trọt, tốc độ tăng trưởng đạt thấp do diện tích gieo cấy lúa giảm dẫn đến sản lượng giảm[6]. Sản xuất nông nghiệp 9 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn do thời tiết không thuận lại trùng với thời gian nhu cầu tiêu thụ và giá xuất khẩu giảm, trong khi nguồn cung trên thị trường thế giới dồi dào nên sức ép cạnh tranh tăng, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta đều giảm cả về lượng và kim ngạch[7].
Sản lượng lúa cả năm ước đạt 45,1 triệu tấn, chỉ tăng 0,3% so với năm trước; trong đó: lúa đông xuân ước đạt 20,69 triệu tấn, giảm 158,8 nghìn tấn (giảm 0,8%); sản lượng lúa hè thu và thu đông ước đạt 14,85 triệu tấn, tăng 370 nghìn tấn (tăng 2,5%); sản lượng lúa mùa ước đạt 9,57 triệu tấn, giảm 71,2 nghìn tấn (giảm 0,74%).
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định. Quy mô đàn bò sữa tiếp tục tăng; chăn nuôi lợn, gia cầm có lãi, dịch bệnh được kiểm soát. Một số địa phương đã tiến hành quy hoạch lại vùng chăn nuôi, theo hướng tập trung, quy mô lớn, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, bảo đảm an toàn dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Chuỗi liên kết trong sản xuất giữa người chăn nuôi và các doanh nghiệp, hệ thống phân phối đang dần được chú ý và áp dụng. Tuy nhiên, nhìn chung ngành chăn nuôi với mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm nhỏ lẻ của từng hộ nông dân là chủ yếu, sản phẩm chăn nuôi chất lượng thấp, chi phí cao; là nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh yếu kém của sản phẩm cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh hội nhập và giảm mạnh thuế suất nhập khẩu trong thời gian tới.
Ngành lâm nghiệp tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá. Thời tiết nắng nóng, khô hạn trong những tháng đầu năm có ảnh hưởng đến các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tuy nhiên, do năm nay có mưa sớm nên tiến độ trồng rừng vẫn bảo đảm. Trong 9 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước đạt 172 nghìn ha, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng bị thiệt hại là 1.712 ha, giảm 53,9% so với cùng kỳ, trong đó: diện tích rừng bị cháy 1.055 ha, giảm 65,5%; diện tích rừng bị phá là 657 ha, tăng 0,9%. Sản lượng gỗ khai thác tăng cao, bảo đảm nguyên liệu cho chế biến sản phẩm xuất khẩu và tiêu dùng trong nước[8].
Tổng sản lượng thủy sản trong 9 tháng đầu năm ước đạt 4,85 triệu tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 4,9%); trong đó: nuôi trồng ước tăng 1,6%; khai thác ước tăng 4,3% (riêng khai thác biển ước đạt 2,13 triệu tấn, tăng 4,6%). Nguyên nhân tăng thấp hơn so với cùng kỳ là do: (i) Tình hình xuất khẩu thủy sản gặp khó khăn, nhu cầu và giá xuất khẩu giảm mạnh, sức ép cạnh tranh ngày càng tăng; (ii) Thời tiết nắng nóng kéo dài gây dịch bệnh dẫn đến giảm sản lượng đối với thủy sản nuôi trồng, nhất là đối với các thủy sản nuôi trồng trọng điểm chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất, như: cá tra, tôm thẻ chân trắng.
d) Khu vực dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 9 tháng đầu năm ước tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2014; nếu loại trừ yếu tố giá, tăng 9,1%, cao hơn mức tăng 7,3% của cùng kỳ năm trước, cho thấy sức mua và tổng cầu đang có chuyển biến phục hồi mạnh mẽ.
Khách quốc tế đến Việt Nam tính chung 9 tháng đạt khoảng 5,7 triệu lượt khách, giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước do sự giảm sút trong 6 tháng đầu năm.
đ) Về phát triển doanh nghiệp: Trong 9 tháng đầu năm, cả nước có 68.347 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 420.932 tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2014 tăng 28,5% về số lượng doanh nghiệp và tăng 31,4% về số vốn đăng ký. Vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp đạt 6,2 tỷ đồng, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Có 12.848 doanh nghiệp trước đây gặp khó khăn ngừng hoạt động nay quay lại hoạt động, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, hoạt động phát triển doanh nghiệp 9 tháng đầu năm tiếp tục ghi nhận những dấu hiệu tích cực, nhất là trong Quý III khi Luật Doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực (01/7/2015), số doanh nghiệp và số vốn đăng ký thành lập mới tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: số doanh nghiệp thành lập mới tăng 44,5% và số vốn đăng ký tăng 54,9% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm 17,8% về số doanh nghiệp thành lập mới và tăng 1,9% về số vốn đăng ký).
Có 6.962 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động kinh doanh, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 4,2%)[9]. Có 47.604 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 15,6%)[10].
Như vậy, hoạt động phát triển doanh nghiệp 9 tháng đầu năm, nhất là kể từ tháng 7 khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, tiếp tục ghi nhận những dấu hiệu tích cực. Trong thời gian chưa có Nghị định Chính phủ ban hành chính thức, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có các văn bản hướng dẫn áp dụng các biểu mẫu và quy định thủ tục tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký đầu tư tại Việt Nam và đầu tư ra nước ngoài, kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp.
3. Về thực hiện ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu kinh tế
a) Về thực hiện 3 đột phá chiến lược
(1) Về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; môi trường đầu tư; kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đã triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành và vận hành khá đồng bộ, gắn kết hiệu quả hơn với thị trường ngoài nước. Giá hàng hóa, dịch vụ đã cơ bản theo nguyên tắc thị trường. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả các nguồn lực trong, ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực cạnh tranh có bước được nâng lên.
(2) Về phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hệ thống thể chế, phát luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ tiếp tục được hoàn thiện. Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng có đổi mới. Cơ cấu đào tạo hợp lý hơn. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo. Chú trọng giáo dục, đào tạo vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có bước phát triển. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh.
Tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường. Khoa học cơ bản đã có bước phát triển. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin truyền thông,… Phát triển thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng bình quân 13,5%. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu quả giữa viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động khoa học, công nghệ.
(3) Về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng; nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước và đã góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hạ tầng giao thông cả đường bộ, đưởng sắt, đường hàng không, hàng hải, đường thủy được quan tâm đầu tư, bảo đảm tốt hơn sự kết nội trên phạm vi cả nước và giao thương quốc tế[11]. Hạ tầng năng lượng cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia[12]. Hạ tầng thủy lợi được đầu tư, nâng cấp và khai thác hiệu quả hơn. Hạ tầng đô thị, nhất là ở các thành phố lơn có bước được cải thiện[13]. Hạ tầng thương mại với hệ thống siêu thị, chợ phát triển khá nhanh. Hạ tầng thông tin truyền thông phát triển mạnh, đã phóng thành công và đưa vào sử dụng Vệ tinh Vinasat-2. Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch,… được quan tâm đầu tư.
b) Về tái cơ cấu nền kinh tế
Thực hiện Đề án tái cơ cấu nền kinh tế đã được Quốc hội thông qua, trong 9 tháng đầu năm đã tiếp tục triển khai các nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng là tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính, đồng thời tiếp tục triển khai tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tiếp tục được quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công.
(1) Về tái cơ cấu đầu tư công
Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công được đổi mới mạnh mẽ về cơ chế chính sách, cũng như trong triển khai thực hiện. Tái cơ cấu đầu tư công, trọng tâm là đầu tư công đã đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ bản khắc phục các tồn tại, hạn chế kéo dài trong nhiều năm, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản, chuyển đổi hình thức lập kế hoạch từ hằng năm sang trung hạn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư công.
Trong 9 tháng đầu năm, việc tái cơ cấu đầu tư công tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế đầu tư công và triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020, kế hoạch đầu tư công năm 2016, tăng cường các biện pháp xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, tăng cường các biện pháp kiểm tra, thanh tra, giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư công; đồng thời thực hiện nhiều giải pháp chính sách để huy động các nguồn vốn của các thành phần kinh tế bổ sung nguồn vốn nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư công, nhất là các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng đồng bộ.
Về xây dựng và hoàn thiện thể chế, đã triển khai chuẩn bị các Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công. Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Luật quy định việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý nhà nước về đầu tư công; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư công. Một trong những nội dung đổi mới quan trọng của Luật Đầu tư công là đổi mới công tác lập kế hoạch đầu tư công từ kế hoạch hằng năm sang kế hoạch trung hạn 5 năm, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Luật Đầu tư công quy định cụ thể và bao quát toàn bộ quy trình từ lập kế hoạch đến thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư trung hạn và hằng năm. Để triển khai thực hiện Luật Đầu tư công, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì xây dựng trình Chính phủ 6 Nghị định hướng dẫn thi hành: (1) Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) đã tạo thêm điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và nước ngoài đầu tư vào phát triển kinh tế; (2) Nghị định số 77/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2015 về kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm; (3) Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều Luật Đầu tư công; (4) Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2015 về giám sát và đánh giá đầu tư; (5) Nghị định về dự án quan trọng quốc gia; (6) Nghị định về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.
Tổ chức triển khai thực hiện Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2015). Việc triển khai các quy định của Luật này nhằm khắc phục việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và việc doanh nghiệp sử dụng vốn, tài sản để đầu tư vào sản xuất kinh doanh không đúng mục tiêu, chiến lược, đầu tư dàn trải, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, tránh lãng phí, thất thoát và phục vụ cho quá trình thực hiện tái cơ cấu các DNNN nói riêng, tái cơ cấu nền kinh tế nói chung cũng như đóng góp tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng trong quản lý kinh tế.
Tổ chức triển khai xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư (được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 thay thế Luật Đầu tư năm 2005 có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2015). Luật Đầu tư 2014 đã giảm thiểu đáng kể những thủ tục, giấy tờ cho nhà đầu tư, minh bạch hóa các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Giấy chứng nhận đầu tư chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên 51% và chỉ điều chỉnh các dự án đầu tư, còn việc thành lập doanh nghiệp sẽ do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh.
Đi đôi với công tác xây dựng thể chế, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 theo đúng các quy định đổi mới của Luật Đầu tư công. Đến nay, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã hoàn thành dự thảo lần thứ 2 kế hoạch đầu tư công trung hạn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp trình Chính phủ cho ý kiến để hoàn thiện trình Quốc hội trong kỳ họp sắp tới.
(2) Tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước
Tái cơ cấu DNNN được tiếp tục thực hiện trên hai hướng: đẩy mạnh cổ phần hoá và đổi mới hệ thống quản trị DNNN. Đặc biệt trong năm 2015 các doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng bắt đầu chuyển đổi hoạt động theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2014.
Kế hoạch năm 2015, cả nước phải cổ phần hóa 289 doanh nghiệp. Tính đến hết tháng 8 năm 2015 mới cổ phần hóa được 95 doanh nghiệp nhà nước, đạt 32,8% kế hoạch cả năm. Một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa nhưng chưa có chuyển biến về chất đối với quản trị, điều hành doanh nghiệp và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sự chậm trễ trong việc thực hiện cổ phần hóa có nguyên nhân khách quan do những khó hăn trong khâu xét định giá trị doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có cơ cấu tài sản phức tạp, số lượng doanh nghiệp phải cổ phần hóa tương đối lớn; nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan trong quản lý của các cấp, các ngành và doanh nghiệp, chưa tích cực, nỗ lực khắc phục khó khăn thực hiện các biện pháp cần thiết để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa.
Về thoái vốn ngoài ngành, trong 8 tháng đầu năm đã thoái vốn được khoảng 8,39 nghìn tỷ đồng, thu về khoảng 12,38 nghìn tỷ đồng, bằng 1,48 lần giá trị sổ sách; trong đó: lĩnh vực bất động sản là 2,69 nghìn tỷ đồng, thu về 3,18 nghìn tỷ đồng; lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, tài chính là gần 1,3 nghìn tỷ đồng thu về 1,35 nghìn tỷ đồng; bán phần vốn nhà nước không cần nắm giữ tại các doanh nghiệp khác là 4,4 nghìn tỷ đồng, thu về 7,86 nghìn tỷ đồng.
Các doanh nghiệp cổ phần hóa bắt buộc phải niêm yết trên thị trường UPCoM. Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Văn bản số 2660/BTC-UBCK của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết một số vấn đề liên quan đến thoái vốn thông qua đấu giá cổ phần và việc niêm yết, đăng ký giao dịch của các doanh nghiệp cổ phần hóa. Doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa khi đáp ứng đủ điều kiện là công ty đại chúng theo quy định của Điều 25 Luật Chứng khoán (vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên, có ít nhất 100 cổ đông) phải thực hiện việc đăng ký giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Quy định này đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sớm được giao dịch cổ phiếu sau cổ phần hóa, qua đó cũng góp phần tạo tính thanh khoản cho cổ phiếu của doanh nghiệp và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tập dượt về các chế độ như công bố thông tin, báo cáo tài chính,… trước khi lên sàn niêm yết.
Đến nay đã có 23 Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Thủ tướng đã phê duyệt 19 phương án, trong đó bổ sung 106 doanh nghiệp cổ phần hóa năm 2015 và 109 doanh nghiệp cổ phần hóa giai đoạn 2016-2020.
(3) Về tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
Sau khi đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ hệ thống, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các biện pháp quyết liệt để tái cơ cấu các ngân hàng thương mại theo hai hướng: xử lý nợ xấu và xử lý sở hữu chéo. Đối với các ngân hàng có quan hệ sở hữu chéo lớn thì buộc phải sáp nhập vào nhau. Các ngân hàng quản trị yếu kém cũng đã được sáp nhập vào các ngân hàng khác mạnh hơn, một số ngân hàng yếu kém khác buộc Ngân hàng Nhà nước phải tiến hành giành quyền kiểm soát thông qua mua lại với giá trị 0 đồng. Trong 8 tháng đầu năm 2015 đã có 3 ngân hàng bị mua lại với giá 0 đồng đó là: Ngân Dầu khí toàn cầu, Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Đại Dương và 03 Ngân hàng khác đã bị sáp nhập. Từ nay đến cuối năm 2015 các ngân hàng yếu kém sẽ tiếp tục được xử lý dứt điểm thông qua các giải pháp nêu trên.
Đồng thời, với việc cơ cấu lại, xử lý các ngân hàng yếu kém đã thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu. Đến nay tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 3%, đạt mục tiêu cả năm 2015. Tuy nhiên, nợ xấu chưa được xử lý một cách triệt để do công tác xử lý và thu hồi nợ chưa thực sự hiệu quả. Các ngân hàng thương mại phải trích lập dự phòng rủi ro, kể cả khoản nợ xấu đã bán cho VAMC, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, giảm nguồn thu NSNN.
4. Về xây dựng nông thôn mới
Phong trào xây dựng nông thôn mới tiếp tục được đẩy mạnh trên khắp cả nước đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Ưu tiên tập trung nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và huy động các nguồn vốn khác đầu tư trong 2015[14], là động lực quan trọng để đẩy nhanh tiến độ, thu hút các nguồn lực đầu tư khác thực hiện chương trình.
Hệ thống thông tin tuyên truyền về nông thôn mới hoạt động tích cực, hiệu quả đã động viên tích cực, kịp thời đến phong trào xây dựng nông thôn mới. Nhận thức của hầu hết cán bộ và người dân về xây dựng nông thôn mới ngày càng nâng cao. Hệ thống cơ chế chính sách thực hiện Chương trình cơ bản hoàn thiện, nhiều cơ chế chính sách của địa phương đã phát huy tác dụng (hỗ trợ lãi suất, nâng mức cho vay để triển khai các dự án xây dựng nông thôn mới); đã có thêm nhiều mô hình, cách làm mới, hiệu quả trong quá trình thực hiện Chương trình như: Chuyển đổi diện tích ven biển để nuôi tôm của tỉnh Nam Định; Mô hình mỗi làng một sản phẩm (OCOP) của tỉnh Quảng Ninh,...
Tính đến hết tháng 6 năm 2015, cả nước có 889 xã (9,94%) đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới[15] (cả năm 2014 có 785 xã). Số xã đạt 15-18 tiêu chí là 1.378 xã (15,5%). Số xã đạt 10-14 tiêu chí 3.205 xã (35,9%). Số xã mới đạt 5-9 tiêu chí là 2.781 xã (31%). Số xã dưới 5 tiêu chí là 693 xã (7,75%). Đã có 06 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới[16]. Hiện nay, còn 05 huyện[17] đã có Tờ trình của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đề nghị công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
5. Về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
a) Về giáo dục đào tạo: trong 9 tháng đầu năm, ngành giáo dục đào tạo tiếp tục triển khai thực hiện việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế"; đổi mới công tác quản lý, tăng cường phân cấp, tạo điều kiện để cơ sở đào tạo tự chủ, tự chịu trách nhiệm; đổi mới phương pháp dạy và học; khuyến khích học sinh tham gia nghiên cứu khoa học; quan tâm giải quyết vấn đề trường, lớp mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong tháng 7 năm 2015, ngành giáo dục đào tạo đã tổ chức thành công kỳ thi Trung học phổ thông (THPT) quốc gia năm 2015. Đây là năm đầu tiên tổ chức một kỳ thi với hai mục đích xét công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng; thể hiện quyết tâm đổi mới thi cử, mở đầu cho công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, việc tăng nhanh số trường đại học, cao đẳng trong thời gian ngắn, dẫn đến tình trạng nhiều trường đại học, cao đẳng và nhất là các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp không tuyển đủ số lượng học sinh, sinh viên cho khóa học mới.
Về giáo dục mầm non: đã tăng cường các biện pháp thực hiện phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi tại một số địa phương; thực hiện nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ; rà soát, bổ sung, hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non; tăng cường chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số; tăng cường quản lý các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập.
Mạng lưới trường, lớp mầm non được củng cố, mở rộng và phân bố đến hầu hết địa bàn dân cư xã, phường, thôn, bản đáp ứng yêu cầu tăng quy mô, chất lượng. Năm học 2014-2015, toàn quốc có 14.203 trường (tăng 336 trường so với năm học trước), trong đó, ngoài công lập là 1.824 trường (chiếm 12,8%). Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 3.545 trường (tăng 2,4% so với năm học trước). Đến tháng 6 năm 2015, có 32 địa phương được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (đạt tỷ lệ 50,8%), ước thực hiện đến hết năm 2015 có 57 tỉnh đăng ký hoàn thành (đạt tỷ lệ 90,5%).
Giáo dục phổ thông: đã thực hiện rà soát, điều chỉnh nội dung chương trình giáo dục phổ thông chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, văn hóa truyền thống, hiểu biết xã hội; tiếp tục chỉ đạo tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học; mở rộng việc áp dụng mô hình giáo dục mới theo hướng phát triển năng lực và hình thành phẩm chất người học theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW. Đổi mới hình thức đánh giá đối với học sinh tiểu học; đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực của học sinh trung học; tích cực chỉ đạo triển khai dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Năm học 2014-2015, cả nước có 28.922 trường phổ thông (ngoài công lập khoảng 2%). Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia khoảng 43,7%, trong đó: trường tiểu học khoảng 50,4% (tăng 2,4%), trường trung học cơ sở khoảng 38,86% (tăng 6,36%), trường trung học phổ thông khoảng 26,22% (tăng 8,62%). Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú tiếp tục được củng cố và phát triển, hiện cả nước có khoảng 308 trường phổ thông dân tộc nội trú và 876 trường phổ thông dân tộc bán trú.
Giáo dục chuyên nghiệp: đang triển khai thực hiện chương trình đào tạo theo cách tiếp cận năng lực hành nghề theo phương châm "thực học, thực nghiệp" theo chuẩn quốc tế; chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, chuyên gia trong việc xây dựng, thực hiện chương trình theo cách tiếp cận năng lực.
Giáo dục đại học: đã thực hiện thay đổi mô hình phát triển giáo dục đại học từ chú trọng phát triển số lượng sang mô hình chú trọng chất lượng và hiệu quả; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học; giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo; chỉ đạo đổi mới công tác xây dựng chương trình đào tạo với sự tham gia của các nhà quản lý, các nhà sử dụng lao động, các nhà tài trợ; chỉ đạo rà soát, xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của các ngành, chuyên ngành đào tạo; xây dựng và công bố trang tra cứu thông tin về đội ngũ giảng viên các cơ sở giáo dục đại học.
Đào tạo nghề: Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề được đầu tư tập trung, đồng bộ theo các nghề trọng điểm. Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và từng bước hội nhập quốc tế, ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu của người học nghề. Cơ chế liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh về nông, lâm, ngư nghiệp, bước đầu phát huy hiệu quả góp phần tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động. Dạy nghề cho lao động nông thôn ngày càng được khẳng định, tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động và xây dựng nông thôn mới, góp phần tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng thu nhập; có trên 30% người lao động sau học nghề đã tìm được việc làm mới hoặc đã thành lập doanh nghiệp, tổ hợp tác sau học nghề.
b) Về khoa học công nghệ: tập trung triển khai các cơ chế, chính sách, pháp luật về khoa học và công nghệ (KH&CN) được ban hành tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương, Luật KH&CN năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong 9 tháng đầu năm, 01 Nghị định của Chính phủ và 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành, một số văn bản khác đang được hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ như: Đề án cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, Đề án tái cơ cấu ngành KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2020,... Hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ. Xây dựng trình Chính phủ Chương trình Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển kinh tế nông thôn và miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025. Triển khai thực hiện Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 15 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghệ cao đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Tổ chức Hội nghị KH&CN các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc lần thứ VII, tạo điều kiện để các địa phương trao đổi kinh nghiệm quản lý, định hướng liên kết, hợp tác phát triển KH&CN trong thời gian tới. Tổ chức các hoạt động tôn vinh các nhà khoa học. Chuẩn bị tốt cho Chợ công nghệ và thiết bị Quốc tế Việt Nam năm 2015 (Techmart);...
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện việc chuyển đổi các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Theo số liệu từ các bộ, ngành, địa phương, trong tổng số 642 tổ chức KH&CN công lập có 488 tổ chức đã được phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ (chiếm 76%), 154 tổ chức đang xây dựng hoặc đang trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án theo quy định tại Nghị định 115.
Đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ. Hình thành một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Chú trọng phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp sạch với quy mô công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới.
Đã đẩy nhanh các hoạt động ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống. Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Triển khai các giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn quốc. Đẩy mạnh hoạt động quản lý tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Về chỉ số đổi mới, sáng tạo, ngày 17 tháng 9 năm 2015, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) công bố báo cáo chỉ số đổi mới, sáng tạo toàn cầu năm 2015, theo đó Việt Nam đứng thứ 52 (tăng 19 bậc so với năm 2014) trên tổng số 141 nền kinh tế và đứng thứ 3 (sau Singapo và Malaysia) trong khu vực Đông Nam Á.
6. Về bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện phúc lợi xã hội và các lĩnh vực xã hội khác:
a) Về lao động, việc làm: trong 9 tháng đầu năm, ước tạo việc làm cho khoảng 1.218 nghìn người, đạt 76,1% kế hoạch năm, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: tạo việc làm trong nước khoảng 1.127 nghìn người, đạt 74,6% kế hoạch năm, tăng 3,1% so với cùng kỳ; xuất khẩu lao động khoảng 90 nghìn người, đạt 99,6% kế hoạch năm, tăng 7,5% so với cùng kỳ.
Thị trường lao động trong nước ngày càng phát triển, các hoạt động thông tin, dự báo thị trường lao động được triển khai đồng bộ trong cả nước; các trung tâm dịch vụ việc làm ngày càng phát huy hiệu quả hoạt động, các sàn giao dịch việc làm được tổ chức định kỳ, thường xuyên với quy mô mở rộng hơn tạo hiệu quả kết nối cung - cầu lao động, nhất là ở các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm. Cổng thông tin điện tử việc làm đã cập nhật thường xuyên tình hình thị trường lao động; theo dõi, cập nhật tình hình lao động việc làm, biến động lao động trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp, các thành phố lớn...
Thị trường xuất khẩu lao động tiếp tục được củng cố và phát triển, các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài được quan tâm thực hiện, công tác quản lý và xử lý các vấn đề phát sinh đối với người lao động đang làm việc ở nước ngoài được tăng cường.
Mức lương tối thiểu vùng của người lao động được điều chỉnh tăng từ ngày 01/01/2015. Việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng đã góp phần giảm khó khăn, cải thiện đời sống của người lao động. Từ ngày 01/01/2015 người về hưu và cán bộ công chức, viên chức và lực lượng vũ trang có hệ số lương từ 2,34 trở xuống được tăng thêm tiền lương bằng 8% mức lương hiện hưởng.
b) Về bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo: Lĩnh vực an sinh xã hội được quan tâm thực hiện tốt; tiếp tục triển khai đồng bộ các chính sách giảm nghèo, trong đó đã thực hiện có hiệu quả các chính sách như hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho vay hộ nghèo, cho vay xuất khẩu lao động...; cấp thẻ bảo hiểm y tế; miễn, giảm học phí cho con em hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, phát triển sản xuất, hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và thực hiện các chính sách giảm nghèo khác. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà, động viên tinh thần và vật chất các gia đình có công với cách mạng nhân Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9; hỗ trợ, giúp đỡ, động viên kịp thời người dân tại Quảng Ninh và các tỉnh miền núi phía Bắc chịu thiệt hại trong đợt mưa lũ lớn vừa qua.
Các địa phương đã theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp hạt, thiệt hại do thiên tai, kịp thời tổ chức cứu trợ và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
c) Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, tình trạng sức khoẻ của người dân có những cải thiện rõ rệt.
Về công tác y tế dự phòng, chủ động triển khai công tác phòng chống dịch bệnh, dự báo phát hiện sớm, khống chế dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Duy trì công tác giám sát dịch tễ thường xuyên, tăng cường giám sát tại các cửa khẩu nhằm phát hiện sớm các trường hợp dịch bệnh xâm nhập, ngăn chặn không để các dịch bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết do vi rút Ebola, dịch hạch, cúm A xâm nhập vào nước ta.
Tỷ lệ mắc và tử vong của hầu hết các bệnh truyền nhiễm (sởi, tay chân miệng, sốt xuất huyết, Cúm A H5N1, Cúm A H1N1, Viêm não vius, viêm não Nhật Bản...) giảm so với cùng kỳ năm 2014. Chiến dịch tiêm vắc xin sởi - Rubela lớn nhất từ trước đến nay cho trẻ từ 1-14 tuổi được triển khai trên toàn quốc với khoảng hơn 20 triệu trẻ, đạt tỷ lệ 96,7%.
Về mạng lưới cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh, được củng cố theo hướng công bằng, hiệu quả và nâng cao chất lượng dịch vụ. Y tế cơ sở được phát triển rộng khắp toàn quốc, trong đó bao gồm cả mạng lưới y tế thôn, bản, đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận các dịch vụ y tế. Tình trạng quá tải bệnh viện được cải thiện. Quy trình khám chữa bệnh tại hầu hết các bệnh viện cũng được tinh giản.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu đã bước đầu được đổi mới, mở rộng dịch vụ y tế cho tuyến xã, thí điểm thực hiện quản lý một số bệnh mãn tính như hen, tăng huyết áp, tiểu đường tại cộng đồng, góp phần giảm tải cho tuyến trên, khoảng 80% trạm y tế xã đã thực hiện khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế.
Về y học cổ truyền, các hoạt động y học cổ truyền ở các trạm y tế dần dần được khôi phục, hoạt động y học cổ truyền đưa vào chuẩn quốc gia về y tế xã. Tỷ lệ khám bệnh bằng y học cổ truyền so với tổng khám chữa bệnh chung của từng tuyến đã có bước cải thiện đáng kể, tuy nhiên chưa chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lượt khám chữa bệnh chung, cụ thể: tuyến tỉnh là 8,8%; tuyến huyện 9,1% và tuyến xã là 24,6%.
d) Về thực hiện chính sách ưu đãi người có công
Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được triển khai như các hoạt động xây mới, sửa chữa nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách; huy động quỹ đền ơn đáp nghĩa; tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách. Công tác giải quyết chính sách đối với người có công được thực hiện kịp thời. Việc tu sửa, nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ,... được quan tâm, từng bước đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Tiếp tục thực hiện Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 14/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin. Công tác tổng rà soát chính sách ưu đãi người có công đối với cách mạng trong 2 năm 2014-2015 theo Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 27/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ được triển khai thực hiện.
đ) Về công tác tôn giáo, tín ngưỡng; chăm sóc người cao tuổi; thực hiện bình đẳng giới; bảo vệ, chăm sóc trẻ em và phát triển thanh niên
Thực hiện đúng đắn chính sách của Đảng về tôn giáo và tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đoàn kết giữa các tôn giáo để phát triển đất nước, đưa lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Về chăm sóc người cao tuổi, tất cả các địa phương đã triển khai chính sách trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi từ 80 tuổi không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Người cao tuổi. Công tác chăm sóc sức khỏe được quan tâm, hầu hết người cao tuổi thuộc diện hưởng lương hưu, chính sách người có công, chính sách bảo trợ xã hội, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, người cao tuổi là đồng bào dân tộc thiểu số,... đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Số người cao tuổi được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng hơn 1,5 triệu người.
Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai đồng bộ trên cơ sở triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 và Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01/12/2009 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước.
Tiếp tục triển khai thực hiện một số chương trình, chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã được phê duyệt: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013-2020, Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2012-2015, Chương trình trợ giúp trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2012-2015,...
Triển khai nhiều hoạt động thiết thực để giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên toàn quốc, phát động các đơn vị, cá nhân, tổ chức ủng hộ Quỹ Bảo trợ Trẻ em Việt Nam.
Các chương trình, dự án tạo điều kiện cho thanh niên phát triển và phát huy năng lực nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội đã đạt những kết quả nhất định: Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ về làm Phó Chủ tịch xã tại các huyện nghèo; Dự án xây dựng Làng Thanh niên lập nghiệp dọc đường Hồ Chí Minh, biên giới và xã đặc biệt khó khăn giai đoạn 2006-2012 và hiện nay giai đoạn 2013-2020 đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, tạo thêm việc làm ổn định, đảm bảo thu nhập cho thanh niên nông thôn và nhân dân trên các địa bàn triển khai Dự án, góp phần xóa các điểm trắng về dân cư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh biên giới và bảo vệ hành lang an toàn đường Hồ Chí Minh. Tiếp tục hoàn thiện Bộ chỉ số phát triển thanh niên.
e) Về phòng chống tệ nạn xã hội
Công tác cai nghiện ma túy, phòng, chống tệ nạn xã hội đã được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện bám sát các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy giai đoạn 2012-2015; Chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011-2015; tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới và Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020.
7. Về văn hóa, thể dục thể thao
a) Về văn hóa: hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy di sản văn hóa được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Các di tích lịch sử quan trọng của quốc gia tiếp tục được quy hoạch, tu bổ, tôn tạo. Các dự án chống xuống cấp và tôn tạo di tích; điều tra, nghiên cứu, bảo tồn một số làng, bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc thiểu số; phong trào phát triển văn hóa cơ sở, văn hóa các dân tộc được tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện. Tích cực triển khai phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; thực hiện nếp sống văn minh trong việc tổ chức lễ hội, lễ cưới, lễ tang,...
Các di sản văn hóa phi vật thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ và phát huy nhằm từng bước góp phần làm đa dạng hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
b) Các hoạt động thể dục thể thao, nhất là các môn thể thao quần chúng được quan tâm tổ chức, hướng tới xã hội thể thao toàn diện. Tiếp tục chú trọng các hoạt động thể thao thành tích cao; chuẩn bị tốt lực lượng tham dự các giải thi đấu khu vực và quốc tế và đạt nhiều kết quả tốt.
8. Về tài nguyên môi trường
Trong 9 tháng đầu năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo trình Quốc hội thông qua Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, cho ý kiến về dự án Luật Khí tượng thủy văn. Trình Chính phủ ban hành 8 Nghị định về lĩnh vực bảo vệ môi trường, quản lý đất đai, tài nguyên nước, đo đạc và bản đồ; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ.
Tiếp tục triển khai toàn diện, đồng bộ việc tổ chức thi hành Luật Đất đai, xây dựng và ban hành 05 thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và các nghị định hướng dẫn thi hành. Trình Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 6/5/2015 quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; Nghị định số 54/2015/NĐ-CP ngày 8/6/2015 của Chính phủ quy định về ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 về tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản. Trình Chính phủ ban hành 05 nghị định hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường và ban hành theo thẩm quyền 10 thông tư hướng dẫn.
Đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng dự báo thời tiết, biến đổi khí hậu, bão lũ, cảnh báo thiên tai,... phục vụ cho việc ổn định phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Tăng cường các biện pháp chính sách bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm không khí, nguồn nước, nhất là những cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đạt được những kết quả tích cực.
Công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường đã có nhiều chuyển biến tích cực. Một số lĩnh vực có sự đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, như: đối với việc thành lập văn phòng đăng ký đất đai giảm từ 71 thủ tục xuống còn 41 thủ tục, giảm thời gian xét cấp giấy chứng nhận đất đai từ 5-25 ngày, thủ tục giao đất thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất giảm 40 ngày.
9. Về thông tin truyền thông
Ngành thông tin truyền thông có nhiều nỗ lực, bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác, theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII; kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02-9; kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; các hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; thông tin phổ biến cơ chế, chính sách mới, diễn biến tình hình kinh tế thế giới và trong nước,...
10. Về cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng
Cải cách hành chính đạt được nhiều kết quả tích cực. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Hiệu quả thực thi pháp luật được nâng lên. Chính phủ đã trình ban hành và triển khai thực hiện Luật Tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Triển khai đồng bộ chương trình tổng thể quốc gia, kế hoạch cải cách hành chính; kiện toàn tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, công chức, tinh giản biên chế với mục tiêu cụ thể, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp. Công tác thanh tra đã đạt được những kết quả tích cực, đáp ứng tốt hơn công tác phòng, ngừa vi phạm pháp luật và phòng chống tham nhũng lãng phí.
Thực hiện đồng bộ chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chú trọng các biện pháp phòng ngừa và những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; thực hiện nghiêm quy định về kê khai và kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập.
Tích cực triển khai Chỉ thị của Bộ Chính trị về khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, trách nhiệm và sự phối hợp trong công tác tiếp công dân được nâng lên. Hầu hết lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương đã trực tiếp đối thoại, giải quyết khiếu nại của công dân. Hạn chế phát sinh mới các khiếu nại vượt cấp và tập trung xử lý nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài. Tập trung rà soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp kéo dài; đến nay đã giải quyết xong 512/528 vụ việc, đạt 97%. Tình hình khiếu nại, tố cáo tiếp tục giảm cả về số vụ và số đoàn đông người.
11. Về công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; quốc phòng an ninh và trật tự xã hội
Về công tác đối ngoại: được triển khai toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, hiệu quả, thúc đẩy chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực. Đẩy mạnh hợp tác trên diễn đàn đa phương, chủ trì tổ chức thành công Đại hội đồng liên minh Nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132. Tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa của chúng ta về vấn đề Biển Đông; kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện nghiêm túc, đầy đủ tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), đã tích cực thúc đẩy đàm phán giữa ASEAN và Trung quốc để đi đến thống nhất nội dung Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Về hội nhập quốc tế: hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai đồng bộ trên cả 3 trụ cột là chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế và văn hóa, xã hội. Đã chính thức ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - Hàn Quốc và Hiệp định Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu. Đã kết thúc thành công việc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tiếp tục đẩy mạnh đàm phán để sớm ký FTA với các đối tác lớn khác. Tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015. Tăng cường công tác bảo hộ công dân, bảo vệ quyền lợi của ngư dân, lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Đã tận dụng được cơ hội phát triển, vượt qua khó khăn thách thức, các hiệp định thương mại tự do đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và những giải pháp hiệu quả. Tuy nhiên, đến nay, nhiệm vụ này chưa được các cấp, các ngành và các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, cả trong việc nghiên cứu đổi mới hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, đổi mới quản trị doanh nghiệp, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm hội nhập có hiệu quả thiết thực.
Về quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội: Tiềm lực quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia, biển đảo được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố. Các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. An ninh trên các lĩnh vực và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhất là trong thời gian diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại, Đại hội Đảng các cấp; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Công tác phòng chống cháy nổ được tăng cường. Bảo đảm an toàn giao thông có chuyển biến tích cực. So với cùng kỳ năm trước, tai nạn giao thông 9 tháng đầu năm đã giảm cả 3 tiêu chí: số vụ tai nạn giảm 12%, số người chết giảm 3,55% và số người bị thương giảm 16,29%.
Đánh giá chung: Với sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, sự giám sát có hiệu quả của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội, sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, chúng ta đã ứng phó kịp thời, có hiệu quả với những biến động kinh tế, chính trị khó lường của thế giới trong năm 2015 và đạt được những kết quả đáng khích lệ về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nổi bật là kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, nền kinh tế tiếp tục phục hồi rõ nét; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định, cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ ngoại tệ tăng nhanh, đạt mức cao nhất từ trước tới nay; mặt bằng lãi suất tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng. Sản xuất công nghiệp, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng khá. Sản xuất nông nghiệp đã khắc phục khó khăn về thiên tai và thị trường, phát triển tương đối ổn định. Tổng cầu và sức mua được tăng lên; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng cao. Thu ngân sách nhà nước, nhất là thu nội địa đạt khá so với cùng kỳ. Niềm tin vào môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, số doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký tăng cao. Các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt một số kết quả tích cực bước đầu. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao được quan tâm, đặc biệt là thông tin tuyên truyền về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc, các hoạt động kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, 40 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,... An sinh xã hội được bảo đảm; phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thực hiện tốt chính sách người có công. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,5%. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu đạt một số kết quả bước đầu. Cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức, nhất là cải cách thủ tục hành chính liên quan đến môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh có bước tiến mới. Phòng, chống tham nhũng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả. Nhiều hiệp định thương mại tự do được đàm phán, ký kết; vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông được tăng cường, tai nạn giao thông giảm.
Tuy nhiên, kinh tế nước ta, nhất là khu vực kinh tế trong nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi còn cao; nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, nợ xấu còn lớn và xử lý nợ xấu còn nhiều vướng mắc; doanh nghiệp trong nước và khu vực nông nghiệp, xuất khẩu nông sản đang rất khó khăn; nhập siêu tăng trở lại. Thể chế kinh tế thị trường chậm được hoàn thiện, còn nhiều hạn chế, các loại thị trường vận hành chưa thông suốt. Thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn đang là vấn đề xã hội bức xúc; chất lượng nguồn nhân lực thấp; kết quả ứng dụng khoa học - công nghệ còn nhiều hạn chế. Tái cơ cấu trong các ngành, lĩnh vực còn chậm, tái cơ cấu và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chậm, chưa đạt tiến độ đề ra. Xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn, nhất là về nguồn lực. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, một số nơi còn mang tính phong trào, chưa huy động được sự tham gia trực tiếp của người dân và nguồn lực xã hội hoá; tỉ lệ hộ nghèo và tái nghèo ở những nơi đặc biệt khó khăn và trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều mặt hạn chế, yếu kém về văn hoá, xã hội khắc phục còn chậm; đạo đức xã hội ở một bộ phận không nhỏ xuống cấp; tình trạng tham nhũng chưa được đẩy lùi. Hiệu quả quản lý và sử dụng tài nguyên còn thấp; ô nhiễm, suy thoái môi trường còn xảy ra ở nhiều nơi. Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, đảo đang đứng trước những thách thức mới. Sự chuẩn bị để hội nhập sâu hơn sau khi ký các hiệp định thương mại (FTA, TPP,…) của ta còn nhiều bất cập.
II. DỰ BÁO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2015
1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước
Các diễn biến khó lường của tình hình địa chính trị, xung đột khu vực và sự phục hồi chậm của kinh tế thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta, việc giá dầu thô và giá các hàng hóa khác ở mức thấp ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ, giá xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Đặc biệt là sự trì trệ và giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ quả phá giá đồng nhân dân tệ sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế nước ta trong những tháng cuối năm, cả về thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của ta vào Trung Quốc cũng như thách thức lớn trong cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Những dự báo về khó khăn thách thức nêu trên của kinh tế thế giới, chúng ta đã lường trước và sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp, hạn chế các tác động tiêu cực, phát huy các lợi thế và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Dự báo trong những tháng cuối năm kinh tế nước ta sẽ tiếp tục trên đà phục hồi. Tăng trưởng kinh tế tiếp tục được cải thiện nhờ vào hàng loạt yếu tố hỗ trợ từ giá đầu vào thấp, lực đẩy từ các doanh nghiệp FDI và sự cải thiện tổng cầu và sức mua ở thị trường trong nước và tăng trưởng xuất khẩu. Khu vực công nghiệp - xây dựng, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo sẽ tiếp tục tăng cao và là động lực chính dẫn dắt tăng trưởng. Khu vực dịch vụ có cải thiện nhất định trong các dịch vụ tài chính, ngân hàng và các dịch vụ có nhu cầu tăng vào cuối năm. Riêng khu vực nông lâm thủy sản sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn khiến tăng trưởng của khu vực này giảm do giá cả nông sản của thế giới được dự báo vẫn theo xu hướng giảm gây khó khăn cho đầu ra nông sản nước ta, đặc biệt khi sức cạnh tranh xuất khẩu của ta còn yếu.
2. Dự báo khả năng thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2015
Trên cơ sở tình hình 9 tháng đầu năm và triển vọng sắp tới, ước khả năng thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 như sau:
STT | Chỉ tiêu | Đơn vị | Kế hoạch năm 2015 | Ước thực hiện năm 2015 |
1. | Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) | % | 6,2 | 6,5 |
2. | Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu | % | 10 | Khoảng 10 |
3. | Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu | % | 5 | 3,6 |
4. | Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP | % | 30-32 | 30,5 |
5. | Chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) | % | Khoảng 5 | 1,5-2,5 |
6. | Tạo việc làm | Triệu lượt người | 1,6 | 1,6 |
7. | Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế | % | 50 | 51,6 |
Trong đó: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng, chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo | % |
| 20 | |
8. | Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị | % | <4 | <4 |
9. | Giảm tỷ lệ hộ nghèo Riêng các huyện nghèo giảm | % % | 1,7-2 4 | 1,7-2,0 4 |
10. | Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng | % | <15 | 14,1 |
11. | Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) | Giường bệnh | 23,5 | 24,0 |
12. | Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý | % | 90 | 92,5 |
13. | Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường | % | 82 | 84 |
14. | Tỷ lệ che phủ rừng | % | 42 | 40,73 |
Như vậy, trong số 14 chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đề ra cho kế hoạch năm 2015 tại Nghị quyết Quốc hội, dự kiến có 13 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch.
Chỉ có 1 chỉ tiêu không đạt kế hoạch là tỷ lệ che phủ rừng, chủ yếu do việc kiểm kê đánh giá lại điều kiện thực tế về quỹ đất còn lại có thể trồng rừng và diện tích rừng, một phần đất rừng bị chuyển đổi sang các mục đích khác,.... Còn nếu tính riêng về chỉ tiêu trồng rừng trong 9 tháng đầu năm đạt 172 nghìn ha, tăng tới 4,2% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại cũng giảm 53,9% so với cùng kỳ.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN TRONG NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2015
Các cấp, các ngành phải nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực phản ứng chính sách, theo dõi chặt chẽ tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt diễn biến giá dầu thô thế giới để chủ động ứng phó, hạn chế thấp nhất tác động tiêu cực, khai thác những mặt thuận lợi, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015. Triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; trong đó, tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia; của doanh nghiệp và từng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
2. Tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ linh hoạt để ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý. Tích cực triển khai các giải pháp thúc đẩy mở rộng tín dụng, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nợ xấu, thực hiện các biện pháp để đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới mức 3% theo mục tiêu đề ra vào cuối năm nay.
3. Đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Rà soát tiến độ triển khai chương trình, dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Kịp thời đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là các chương trình, dự án ODA và các dự án quan trọng, cấp bách. Rà soát quy trình, đánh giá hiệu quả các dự án hạ tầng giao thông đường bộ đầu tư theo hình thức (BOT), bảo đảm triển khai đúng quy định pháp luật, phát huy hiệu quả.
4. Tăng cường các giải pháp thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách, bảo đảm thu đúng, thu đủ; quản lý chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; chủ động triển khai các giải pháp cân đối thu chi ngân sách nhà nước phù hợp với tình hình thực tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp tại Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ tài chính, ngân sách nhà nước năm 2015. Tổ chức triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đẩy mạnh công tác đấu tranh, chống gian lận thương mại trong tình hình mới. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan. Thực hiện các giải pháp điều hành thị trường chứng khoán phát triển ổn định, lành mạnh.
5. Thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, kinh doanh hiệu quả. Tích cực triển khai các giải pháp mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu; tăng cường triển khai các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết. Tăng cường công tác thông tin về nội dung các Hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia và ký kết để cộng đồng doanh nghiệp tranh thủ khai thác cơ hội cũng như chủ động thích ứng trong điều kiện hội nhập.
6. Tập trung chỉ đạo các địa phương triển khai có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Chủ động đề xuất các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp giám sát, chủ động phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi.
7. Tổng kết, đánh giá toàn diện công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2015 để hoàn thiện quy chế trong năm học tới, góp phần cải cách toàn diện công tác giáo dục, đào tạo.
8. Tiếp tục nhân rộng mô hình, mở rộng mạng lưới các bệnh viện vệ tinh; triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh. Tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh, công tác thanh tra, kiểm tra bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
9. Tích cực triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam, kịp thời đề xuất các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tăng sức cạnh tranh cho ngành du lịch. Tăng cường quản lý di tích gắn với việc bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch.
10. Tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Tập trung đẩy mạnh Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với giải quyết việc làm. Tiếp tục khai thác và phát triển các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống, đồng thời xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng.
11. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động cung cấp thông tin về cơ chế, chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý, nhất là những vấn đề dư luận quan tâm, góp phần tạo niềm tin và sự đồng thuận của toàn xã hội.
12. Đi đôi với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, cần sớm hoàn thiện trình Quốc hội trong kỳ họp tới về dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự thảo kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020.
IV. ƯỚC THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011-2015
Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội 4 năm 2011-2014, ước thực hiện năm 2015, ước khả năng thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 như sau:
STT | Chỉ tiêu | Đơn vị | Thực hiện 2006-2010 | Mục tiêu 2011-2015 | Ước thực hiện 2011-2015 | So với mục tiêu KH 5 năm |
| Các chỉ tiêu kinh tế | |||||
1 | Tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm | % | 7,0 | 6,5-7 | 5,88 | Không đạt |
2 | Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội trong GDP bình quân 5 năm | % | 42,7 | 33,5-35 | 31,2 | Không đạt |
3 | Tỷ lệ nhập siêu trong kim ngạch xuất khẩu đến năm cuối kỳ kế hoạch | % | 17,4 | <10 | 3,6 | Vượt |
4 | Bội chi ngân sách nhà nước vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 5,5 | <4,5 | 5,0[18] | Không đạt |
5 | Tiêu tốn năng lượng tính trên GDP bình quân 5 năm so với năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm giai đoạn trước | % | Tăng 12 | Giảm 2,5-3 | Giảm 6,55 | Vượt |
6 | Tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp | % | ......[19] | 30 | 18,37[20] | Không đạt |
7 | Tỷ lệ đổi mới công nghệ bình quân 5 năm | % | ...... | 13 | 10,68 | Không đạt |
8 | Tăng năng suất lao động xã hội đến năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm so với cuối kỳ kế hoạch 5 năm giai đoạn trước | % | ...... | 29-32 | 22 | Không đạt |
9 | Tỷ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách trong GDP bình quân 5 năm | % | 25,4 | <22-23 | 21 | Đạt |
10 | Nợ công trong GDP vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 57,1 | <65 | 61,3 | Đạt |
11 | Dư nợ của Chính phủ trong GDP đến năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 40,9 | <50 | 48,9 | Đạt |
12 | Dư nợ nước ngoài của quốc gia trong GDP vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 42,2 | <50 | 41,5 | Đạt |
13 | Chỉ số giá tiêu dùng vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 9,19 | 5-7 | 1,5-2,5 | Đạt |
| Các chỉ tiêu xã hội | |||||
14 | Số lao động được tạo việc làm 5 năm 2011-2015 | Triệu lượt người | 8,07 | 8 | 7,8 | Không đạt |
15 | Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 4,29 | <4 | <4 | Đạt |
16 | Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 40 | 55 | 51,6 | Không đạt |
17 | Thu nhập thực tế của dân cư vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm so với năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm giai đoạn trước | Lần | 1,38 | 2-2,5 | 2,85-2,9 | Vượt |
18 | Tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân hàng năm | % | ˃2,5 | 2 | 2 | Đạt |
19 | Tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân hàng năm đối với các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn | % | ...... | 4 | 4 | Đạt |
20 | Diện tích nhà ở bình quân vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | m2 sàn/người | 17,2 | 22 | 22 | Đạt |
21 | Diện tích sàn nhà ở bình quân đô thị vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | m2 sàn/người | 20 | 26 | 26 | Đạt |
22 | Tốc độ tăng dân số vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 1,05 | Khoảng 1 | 1,03 | Đạt |
23 | Số bác sỹ trên 1 vạn dân vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | Bác sỹ | 7,1 | 8 | 8 | Đạt |
24 | Số giường bệnh (không tính giường trạm y tế xã) trên 1 vạn dân vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | Giường | 20,5 | 23 | 24 | Vượt |
| Các chỉ tiêu môi trường | |||||
25 | Tỷ lệ che phủ rừng vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm | % | 39,5 | 42-43 | 40,73 | Không đạt |
26 | Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm được xử lý | % | 77,0 | 85 | 92,5 | Vượt |
Như vậy, trong số 26 chỉ tiêu chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường được Quốc hội thông qua, trong đó ước thực hiện có 17 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, có 9 chỉ tiêu ước không đạt kế hoạch.
Nguyên nhân một số chỉ tiêu đạt kế hoạch thấp, về mặt khách quan là do sự phục hồi chậm của kinh tế thế giới, những diễn biến phức tạp về chính trị và xung đột ở một số khu vực, tranh chấp chủ quyền biển đảo trong khu vực và Biển Đông; những yếu kém của nội tại nền kinh tế từ trước càng làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn hơn. Ngoài ra, trong khi xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm trình Quốc hội, mặc dù đã tính đến các yếu tố trên, nhưng vẫn cố gắng bám sát chỉ tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra, nên chưa thật sát với tình hình thế giới và trong nước thời gian qua. Như việc xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng GDP là 6,5 - 7% (Nghị quyết Đại hội XI là 7 - 7,5%); hoặc chỉ tiêu tạo việc làm lao động, vẫn giữ 1,6 triệu lao động, trong khi đã điều chỉnh giảm tăng trưởng GDP,...
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2016
I. DỰ BÁO BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Về tình hình thế giới: hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo, nhưng tình hình thế giới dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sẽ gia tăng quyết liệt.
Kinh tế thế giới năm 2016 tiếp tục phục hồi, nhưng tốc độ phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức, đặc biệt là rủi ro địa - chính trị, biến động khó lường trên thị trường tài chính và giá dầu, vấn đề nhà nước hồi giáo IS, tình hình xung đột vũ trang ở Syria dẫn tới làn sóng di cư, tị nạn có quy mô lớn nhất từ sau thế chiến thứ II đến Châu Âu. Tranh chấp chủ quyền biển đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn biến gay gắt, phức tạp. Sự suy giảm kinh tế và sự phá giá mạnh đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của các nước, trong đó khu vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là các nước kém phát triển và đang phát triển. Nếu Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất vào cuối năm nay thì những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu, đầu tư và thương mại thế giới cũng như đối với các nước còn lớn hơn..
Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) năm 2016 kinh tế thế giới tăng trưởng 3,8%; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tiếp tục hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2016 từ 3,8% xuống 3,6%. OECD cho rằng hoạt động kinh tế của Mỹ yếu kém và vốn đầu tư của các chính phủ và doanh nghiệp giảm sút mạnh là một phần nguyên nhân kéo kinh tế toàn cầu đi xuống; Ngân hàng Thế giới (WB) hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2016 xuống 3,3%; tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển trong năm 2016 là 5,2%.
Về kinh tế Trung Quốc, nền kinh tế có quy mô lớn thứ 2 thế giới đang đứng trước những thử thách rất lớn trong phát triển. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang có sự suy giảm, dự báo tăng trưởng năm 2016 là 6,3% (IMF dự báo tháng 7/2015), thấp hơn 0,5% so với năm 2015. Tình trạng giảm đà tăng trưởng, chứng khoán lao dốc và động thái phá giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc ảnh hưởng mạnh đến kinh tế thế giới, nhất là các nước có quan hệ thương mại và đầu tư lớn với Trung Quốc, trong đó có nước ta.
Đối với Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), IMF và OECD dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2016 là 1,7% và 1,9%, trong đó IMF dự báo tăng trưởng của hai nền kinh tế lớn trong khu vực này là Đức và Pháp lần lượt ở mức 1,7% và 1,5%. Đối với Nhật Bản, IMF dự báo tăng trưởng ở mức 1,2%. Các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi được dự báo tiếp tục giảm sút, trong đó Brazil, nền kinh tế lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh, dự báo tăng 0,7% năm 2016.
Giá dầu thô giảm sâu và giá các nguyên liệu, khoáng sản khác đi xuống có thể đẩy nhanh quá trình giảm tốc độ tăng trưởng ở một số nước đang phát triển có mức độ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu tài nguyên. Trong đó, các nền kinh tế mới nổi còn gặp khó khăn hơn do phải ứng phó với sự giảm giá của đồng nội tệ so với đồng USD.
Về dự báo tình hình trong nước: năm 2016 là năm có ý nghĩa quan trọng với những sự kiện đặt biệt như: Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Về phát triển kinh tế, mặc dù chịu tác động của sự trì trệ, chậm phát triển của kinh tế thế giới, nhưng với kết quả phát triển của năm 2015, đặc biệt là biện pháp xử lý kịp thời các tác động của kinh tế thế giới, chúng ta đã tận dụng được lợi thế và cơ hội phát triển. Các dự báo của các tổ chức quốc tế và trong nước đều đồng thuận về xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta trong năm 2016.
Trong năm tới nền kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi ổn định. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp và tương đối ổn định là điều kiện quan trọng để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn năm 2017. Các động lực tăng trưởng chủ yếu trong năm 2016 tiếp tục được phát huy: (1) sự phục hồi và tiếp tục tăng trưởng cao của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhờ giá đầu vào thấp và sức mua của thị trường trong nước tăng; (2) Hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp trong nước có những cải thiện, nhờ tiếp cận thuận lợi hơn các nguồn vốn, xuất khẩu được đẩy mạnh nhờ thực hiện các hiệp định FTA, nhất là triển vọng ký kết TPP; khu vực FDI phát triển ổn định với khả năng cạnh tranh cao và nhờ thị trường ổn định, giá xuất khẩu các sản phẩm chế biến, chế tạo của khu vực này không có biến động lớn; (3) sức mua và tổng cầu thị trường trong nước tiếp tục tăng, nhờ lòng tin vào phục hồi nền kinh tế, tăng trưởng cao, lạm phát thấp, việc làm và thu nhập của dân cư tăng; và (4) là tăng trưởng của đầu tư và tận dụng phát huy được năng lực sẵn có đưa vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, nhờ cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp khi triển khai, đưa các chế định của các Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... và thực hiện trong đời sống kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế còn rất lớn. Giá dầu thô và giá nông sản thế giới giảm thấp và thị trường xuất khẩu nông sản bị thu hẹp, ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu và nguồn thu của NSNN; đặc biệt là sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc và phá giá đồng nhân dân tệ sẽ gây khó khăn cho xuất khẩu của nước ta vào thị trường này, trong điều kiện nhập siêu lớn với Trung Quốc. Việc hình thành cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015 và việc ký kết và triển khai các hiệp định thương mại tự do FTA mở ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng gây ra những khó khăn, thách thức rất lớn. Sự nắm bắt, hiểu biết về hội nhập cũng như tác động đến các hoạt động của nền kinh tế, đến đầu tư, kinh doanh của từng doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó, trình độ công nghệ phổ biến còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, khả năng cạnh tranh thấp sẽ là những khó khăn rất lớn cho sự phát triển trong năm 2016, cần có các giải pháp chính sách để khắc phục cả trong năm 2016 và trong trung và dài hạn.
II. MỤC TIÊU NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2016
1. Mục tiêu tổng quát:
Trên cơ sở đánh giá tình hình trong thời gian qua và triển vọng phát triển, căn cứ mục tiêu phát triển trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 trong dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XII, mục tiêu tổng quát đề ra cho năm 2016 như sau:
Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015, chú trọng cải thiện chất lượng tăng trưởng, bảo đảm phát triển bền vững. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính và xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo sự chuyển biến rõ nét về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2016
a) Các chỉ tiêu kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,7% so với năm 2015.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10% so với năm 2015.
Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 5%.
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP là 4,95%.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 31% GDP.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng dưới 5%.
Tỷ suất tiêu hao năng lượng trên một đơn vị GDP giảm 1,5% so với năm 2015.
b) Các chỉ tiêu xã hội
Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,3-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%.
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 53% (trong đó: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo: 21%).
Số giường bệnh trên một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 24,5 giường.
Tỷ lệ dân số tham gia Bảo hiểm y tế đạt 76%
c) Các chỉ tiêu môi trường
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 85%.
Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%.
III. DỰ KIẾN MỘT SỐ CÂN ĐỐI LỚN CỦA NỀN KINH TẾ NĂM 2016
1. Lao động và việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên dự kiến là khoảng 55,3 triệu người, trong đó đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân dự kiến là 54,4 triệu người.
Cơ cấu lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp dự kiến là 44,5%; công nghiệp và xây dựng là 22%; dịch vụ là 33,5%.
2. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước[21]
Tổng thu cân đối NSNN năm 2016 dự kiến là 1.014,5 nghìn tỷ đồng. Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2016 khoảng 1.273,2 nghìn tỷ đồng; trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 255,75 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước dự kiến 4,95% GDP.
3. Cân đối vốn đầu tư phát triển
Dự kiến khả năng huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2016 khoảng 1.587,75 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 31% GDP. Dự kiến huy động các nguồn vốn như sau:
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 255,75 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn trái phiếu Chính phủ 60 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước khoảng 65 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đầu tư khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 160 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân khoảng 692 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (không bao gồm phần đóng góp trong nước) khoảng 310 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Các khoản vốn huy động khác khoảng 45 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,8% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
4. Cân đối xuất nhập khẩu
Xuất khẩu năm 2016 dự kiến đạt khoảng 182 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với năm 2015; nhập khẩu khoảng 188 tỷ USD, tăng khoảng 9,9%. Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu dự kiến dưới 5%.
5. Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân vãng lai dự kiến thặng dư khoảng 0,8 tỷ USD, cán cân vốn và tài chính thặng dư 8,5 tỷ USD. Sau khi trừ đi phần lỗi và sai sót, cán cân tổng thể thặng dư khoảng 7 tỷ USD.
6. Cân đối về điện
Nhu cầu điện năm 2016 dự kiến tăng khoảng 11% so với năm 2015. Nhu cầu điện thương phẩm khoảng 159,1 tỷ kWh, điện sản xuất và nhập khẩu năm 2016 khoảng 175,9 tỷ kWh, trong đó điện sản xuất của EVN là 73,3 tỷ kWh. Công suất dự phòng của hệ thống điện toàn quốc là 15%.
7. Cân đối về lương thực
Dự kiến kế hoạch diện tích gieo trồng lúa năm 2016 cả nước là 7,6-7,7 triệu ha. Sản lượng lúa dự kiến 44,5 triệu tấn, trong đó: sử dụng cho các nhu cầu trong nước khoảng 28,14 triệu tấn (thóc giống, chăn nuôi, hao hụt, chế biến, tiêu dùng), lúa hàng hóa xuất khẩu 16,36 triệu tấn (tương đương 8,16 triệu tấn gạo).
IV. NHIỆM VỤ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
Để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội nêu trên, nhiệm vụ định hướng phát triển ngành, lĩnh vực chủ yếu trong năm 2016 đề ra như sau:
1. Về phát triển kinh tế
a) Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động kiểm soát lạm phát
Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ phát triển thị trường, tạo đà vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020.
Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam; mức dư nợ tín dụng phù hợp với yêu cầu tăng trưởng, đồng thời bảo đảm chất lượng tín dụng; cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Chủ động thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng hiệu quả; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đối với thị trường tiền tệ.
Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quy định pháp luật về ngân sách nhà nước. Tăng cường quản lý, chống thất thu, nợ đọng thuế. Bảo đảm an ninh tài chính quốc gia; lành mạnh hóa hệ thống tài chính; huy động, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế. Cơ cấu lại thu ngân sách, tăng mức huy động vào ngân sách từ GDP. Phấn đấu tăng thu NSNN, đồng thời kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát cả trong chi thường xuyên và chi đầu tư. Tiết kiệm và giảm tối đa kinh phí hội nghị, hội thảo, lễ hội, đi công tác nước ngoài, không tăng chi thường xuyên của các bộ, ngành Trung ương và địa phương so với dự toán năm 2015; hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mới làm giảm thu và chỉ ban hành các chính sách làm tăng chi NSNN khi thật sự cần thiết và có nguồn kinh phí bảo đảm. Quản lý chặt chẽ việc ứng trước dự toán và chi chuyển nguồn. Tích cực cơ cấu lại chi ngân sách, bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ, theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển. Đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng vốn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước. Phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp xử lý nợ công; tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ. Quản lý sử dụng có hiệu quả vốn vay, quản lý tốt nợ trung hạn và quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro; tăng cường quản lý các khoản vay mới, khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện. Bảo đảm kiểm soát mức dư nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định. Tiếp tục cơ cấu lại các khoản vay theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn với lãi suất phù hợp để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu của đất nước.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán; nghiên cứu, hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm phát triển thị trường tài chính hiệu quả, an toàn, lành mạnh.
b) Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy tinh thần khởi nghiệp, làm kinh tế của toàn xã hội, của các thành phần kinh tế; quan tâm sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật, pháp lệnh triển khai Hiếp pháp năm 2013. Tăng cường thực thi pháp luật đi đôi với cải cách tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý quy hoạch theo hướng tổng thể, đồng bộ, chú trọng cơ chế điều phối vùng để khai thác tối đa nguồn lực sẵn có. Đa dạng hóa, phát triển đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại thị trường, bảo đảm vận hành thông suốt và cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Thực hiện cơ chế thị trường, nghiên cứu và thực hiện tách dịch vụ công ra khỏi quản lý nhà nước; đẩy mạnh xã hội hóa đối với việc cung cấp dịch vụ công, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ theo hướng công nghệ cao, công nghệ tái tạo giá trị gia tăng.
c) Đẩy nhanh thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tái cơ cấu nền kinh tế tiếp tục tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất là: tái cơ cấu đầu tư, trong đó trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác. Đối với các ngành, lĩnh vực, cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển các ngành dịch vụ.
Đối với tái cơ cấu đầu tư công: Xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 theo đúng quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 với các nguyên tắc định hướng sau: Bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất về mục tiêu, cơ chế, chính sách và phân cấp trong quản lý đầu tư, tạo sự chủ động, linh hoạt cho các bộ, ngành, địa phương; phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối vốn đầu tư công và tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước; bố trí vốn tập trung, ưu tiên vốn đối ứng cho các dự án ODA, thu hồi vốn ứng trước, thanh toán nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn cho các công trình chuyển tiếp, hỗ trợ đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), chỉ đầu tư vào những công trình, dự án cần thiết mà khu vực ngoài nhà nước không tham gia; ưu tiên nguồn lực cho đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, các công trình phòng chống thiên tai, các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả về đầu tư công.
Năm 2016, tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ hoàn thành chất lượng các chương trình, dự án, công trình trọng điểm quốc gia, các công trình cấp thiết đang đầu tư dở dang; ưu tiên vốn đối ứng cho các dự án ODA quan trọng, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản và thu hồi vốn ứng trước; phần còn lại mới bố trí cho các dự án khởi công mới. Dành một phần thu từ thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho đầu tư phát triển. Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng gắn với đẩy mạnh phân cấp và xã hội hóa. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng. Tăng cường kiểm toán, giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với tất cả các khâu trong quá trình đầu tư.
Tiếp tục triển khai đồng bộ chủ trương, định hướng tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, gồm:
- Tăng cường huy động, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Hoàn thiện cơ sở pháp lý để thu hút các nguồn vốn đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực nông nghiệp nông thôn.
- Mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân cả trong và ngoài nước. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng phát triển và các vùng kinh tế động lực, một số ngành nghề trong lĩnh vực xã hội, xử lý môi trường; bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững.
- Ban hành và triển khai có hiệu quả các Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua, nhất là các văn bản luật có liên quan đến tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Tiếp tục tăng cường quản lý đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và tín dụng ưu đãi, khắc phục tình trạng bố trí vốn phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư theo kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020.
- Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch vùng, lãnh thổ; quy hoạch phát triển ngành; quy hoạch đô thị làm căn cứ để xây dựng các chương trình và kế hoạch đầu tư trung hạn. Hoàn thiện và trình Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch để làm căn cứ cho việc quản lý quy hoạch phát triển trên phạm vi cả nước.
- Tăng cường công tác kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, nhất là đối với đầu tư công. Trong đó, cần đề cao vai trò giám sát của cộng đồng dân cư; làm rõ trách nhiệm đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về đầu tư công, gây lãng phí, thất thoát nguồn lực của nhà nước.
- Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu thi công, bảo đảm nhà thầu có đầy đủ năng lực thực hiện dự án theo đúng yêu cầu chất lượng và tiến độ quy định.
Đối với tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước:
- Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả việc sắp xếp, tái cơ cấu daonh nghiệp nhà nước, các công ty nông, lâm nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn quan trọng.
- Tập trung chỉ đạo nghiên cứu xây dựng các đề án, cơ chế chính sách trọng tâm. Tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiếp tục thực hiện triển khai các Nghị quyết của Đảng về sắp xếp, cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả DNNN (Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX, Kết luận số 50-KL/TW ngày 29/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương) và Quyết định số 929/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục quán triệt tới các cấp, các ngành về kế hoạch, lộ trình tái cơ cấu DNNN, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo hoàn thành đúng theo các đề án đã được phê duyệt. Xử lý nghiêm đối với lãnh đạo doanh nghiệp không thực hiện đúng hoặc thực hiện không có kết quả tái cơ cấu và nhiệm vụ được giao trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
- Bán phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ theo cơ chế thị trường. Tăng cường quản lý theo dõi, đánh giá tình hình thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào những ngành không phải ngành kinh doanh chính, thoái vốn nhà nước ở công ty cổ phần nhà nước không cần chi phối.
- Về công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của chủ sở hữu nhà nước, cần tiếp tục kiện toàn bộ máy, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành và đơn vị cơ sở có liên quan. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ cấu và nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả của DNNN, nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện các quy chế, quy định nội bộ theo quy định tại Nghị định 99/2012/NĐ-CP. Triển khai công tác đánh giá DNNN theo quy định tại Nghị định 61/2013/NĐ-CP, hướng tới nghiên cứu hình thành cơ chế đánh giá độc lập để đảm bảo tính chính xác, khách quan trong đánh giá, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Thực hiện giám sát theo quy định của pháp luật các hoạt động đầu tư kinh doanh của DNNN; tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp, Kiểm soát viên, Người đại diện vốn nhà nước, đảm bảo hiệu quả giám sát, quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh việc minh bạch, công khai hóa thông tin về hoạt động doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả tổ chức thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.
Đối với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại:
- Tiếp tục đẩy mạnh xử lý nợ xấu, rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng (TCTD) và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) hoạt động thực chất, an toàn, hiệu quả theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Sửa đổi, các quy định pháp luật theo hướng tăng cường quản lý, kiểm soát doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng để hạn chế, kiểm soát sở hữu chéo, đầu tư chéo. Tăng cường thanh tra, giám sát, xử lý đúng pháp luật các sai phạm; bảo đảm nâng cao độ an toàn
- Sửa đổi, bổ sung Luật Dân sự theo hướng bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ nợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng thu giữ, chủ động xử lý tài sản bảo đảm và có chế tài phù hợp bảo đảm thực thi nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn ngân hàng; sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, thời gian thi hành các vụ án dân sự.
- Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng thương mại, sáp nhập hoặc mua lại các ngân hàng yếu kém đi đôi với tổ chức lại, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống và từng ngân hàng thương mại.
- Phát triển thị trường mua bán nợ, củng cố DATC, xây dựng cơ chế cho VAMC để xử lý thực chất nợ xấu.
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp: tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp và tổ chức lại mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với từng vùng, miền, sản phẩm gắn với xây dựng nông thôn mới; tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Rà soát, bổ sung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện đại hóa, phát triển nhanh Đẩy mạnh xây dựng mô hình sản xuất theo hướng liên kết chặt chẽ giữa kinh tế hộ gia đình với doanh nghiệp, với thị trường để đưa nông nghiệp lên sản xuất quy mô lớn, giá trị tăng cao.
Tái cơ cấu công nghiệp: tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Phát triển ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng và tỷ trọng giá trị nội địa cao, thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm gia công, lắp ráp.
c) Thực hiện đa dạng hóa thị trường, tận dụng, phát huy lợi thế do quá trình hội nhập đem lại
Triển khai có hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch quốc gia. Phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế, có giá trị gia tăng cao như du lịch, viễn thông, công nghệ thông tin,... Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, tiếp thị để nâng cao vị thế và uy tín của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu đối với những mặt hàng không thiết yếu. Mở rộng thị trường, khai thác tốt những thị trường hiện có và thúc đẩy những thị trường tiềm năng để xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng và giá trị kim ngạch cao. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tận dụng khai thác tối đa những lợi thế và giảm thiểu các tác động bất lợi do các cam kết quốc tế, hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết mang lại. Chủ động, tích cực tham gia đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) và các thỏa thuận thương mại khác. Rà soát, điều chỉnh kịp thời các chính sách, giải pháp để chủ động hội nhập có hiệu quả khi đàm phán xong các FTA và Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
d) Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh
Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tại Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hai năm 2015-2016; tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa; bảo đảm cạnh tranh bình đẳng. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân; hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm, dịch vụ thông qua phát triển các công cụ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa như vườn ươm doanh nghiệp, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, dịch vụ hỗ trợ tư vấn trực tiếp cho từng doanh nghiệp… Khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực: thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội theo hướng tạo thuận lợi ở mức cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.
Tập trung củng cố, tổ chức lại hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập trước ngày 01/7/2013 cho phù hợp với quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012; giải thể các hợp tác xã ngừng hoạt động, hợp tác xã không có khả năng củng cố, tổ chức lại. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai Luật Hợp tác xã, hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đi đôi với việc tuyên truyền, tập huấn sâu rộng quy định pháp luật về hợp tác xã.
đ) Chú trọng nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, điều chỉnh kịp thời các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng, các địa phương, các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển chiến lược và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế thông qua các cam kết và các hiệp định đã ký kết và sẽ ký kết với các nước, các tổ chức quốc tế.
Tăng cường công tác thu thập thông tin, phân tích đánh giá và dự báo tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là chất lượng dự báo nhằm phục vụ cho việc hoạch định các mục tiêu và chính sách phát triển của đất nước, cũng như của từng ngành, từng địa phương và phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 44/NQ-CP ngày 09 tháng 06 năm 2014 của Chính phủ. Rà soát thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo Quyết định 37/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động các doanh nghiệp tham gia dạy nghề.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoa học công nghệ, chú trọng đồng bộ, thống nhất giữa hệ thống pháp luật chuyên ngành với các lính vực khác có liên quan tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ.
Đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tăng cường sự liên kết giữa các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp, nhà sản xuất. Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đẩy mạnh hoạt động quản lý tiêu chuẩn, đo lường chất lượng và nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi cả nước.
3. Về phát triển văn hóa, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
Tiếp tục thực hiện các nghị quyết Trung ương về chính sách xã hội. Làm tốt chính sách ưu đãi người có công, công tác tìm kiếm và xác định danh tính hài cốt liệt sỹ. Rà soát, điều chỉnh và triển khai đồng bộ các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, giảm nghèo bền vững, dạy nghề, giải quyết việc làm,... nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, vùng ATK, các huyện nghèo và các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; rà soát, sửa đổi chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ tiền lương tối thiểu vùng[22],... nhằm quan tâm và phục vụ người dân tốt hơn. Triển khai các chương trình, chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo mới.
Thực hiện các chính sách tạo việc làm gắn với phát triển thị trường lao động. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách khuyến khích, hỗ trợ người lao động, đồng thời cơ cấu lại lực lượng lao động đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng dự báo và thông tin thị trường lao động; tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc giám sát và điều tiết quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động; tiếp tục phát huy và nâng cao năng lực hoạt động của sàn giao dịch việc làm, góp phần tích cực kết nối cung - cầu lao động.
Nâng cao hiệu quả dạy nghề gắn với giải quyết việc làm. Chủ động đào tạo cung cấp lao động có tay nghề, trình độ cho các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung và các dự án đầu tư lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển đất nước. Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động, an toàn lao động và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Tổ chức hướng dẫn triển khai thực hiện Đề án củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2025 theo Quyết định số 524/QĐ-TTg ngày 20/4/2015.
Chủ động, tích cực phòng, chống dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm theo Nghị quyết số 34/2009/NQ-QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội. Triển khai các giải pháp để thực hiện đề án giảm quá tải bệnh viện theo Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2013. Từng bước thiết lập lại hệ thống chuyển tuyến trong khám chữa bệnh, khuyến khích việc khám chữa bệnh đúng tuyến. Đẩy mạnh thực hiện Luật bảo hiểm y tế, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội.
Khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập và hình thức hợp tác công - tư, tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế. Đẩy mạnh thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở y tế, chuyển các bệnh viện từ loại hình tự đảm bảo một phần kinh phí thường xuyên sang tự đảm bảo toàn bộ kinh phí thường xuyên. Thực hiện khung giá dịch vụ y tế mới trên nguyên tắc tính đúng, tính đủ các chi phí khám chữa bệnh. Phát triển một số lĩnh vực y học chất lượng cao, y học mũi nhọn.
Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Phát triển dân số bền vững, quan tâm chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; làm tốt công tác gia đình. Phát triển phong trào thể dục, thể thao để nâng cao thể chất của người Việt Nam. Tiếp tục triển khai toàn dân "Cuộc vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Phát triển đồng bộ thể dục, thể thao trong trường học, trong lực lượng vũ trang, ở các cấp cơ sở xã, phường, thị trấn phục vụ nhu cầu tập luyện, thi đấu và rèn luyện sức khỏe của người dân.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo và tự do tín ngưỡng; bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ. Tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trong Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chú trọng công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của trẻ em; phát triển thanh niên. Thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách quốc gia và công ước quốc tế về quyền trẻ em. Củng cố, tăng cường bộ máy làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Kiện toàn và phát huy hiệu quả hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, dự án có sự tham gia của thanh niên như Dự án thí điểm tuyển chọn 600 tri thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62 huyện nghèo, Đề án xây dựng Làng thanh niên lập nghiệp 2013-2020,...
4. Về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Xây dựng, triển khai hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các chương trình mục tiêu về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, chủ động ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Đẩy nhanh tiến độ để sớm hoàn thành việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, hệ thống thông tin đất đai đồng bộ, hiện đại và bản đồ, hồ sơ địa chính hiện đại; tiếp tục điều tra cơ bản về tài nguyên, nhất là tài nguyên biển. Tăng diện tích trồng rừng mới. Tăng cường quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm, nhất là tại các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm nặng. Kiên quyết xử lý các cơ sở sử dụng lãng phí năng lượng, tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia trong quản lý, sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công và một số con sông khác có lưu vực ở nước ngoài.
5. Về cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cải thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội, chấp hành luật pháp gắn với tinh giản biên chế trong cơ quan nhà nước các cấp; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tiếp công dân. Xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài.
6. Về quốc phòng, an ninh; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Xử lý kiên quyết không để hình thành các tổ chức hoạt động trái pháp luật. Bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội đại biểu toàn quố lần thứ XII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn và ùn tắc giao thông.
Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương, ngoại giao nhân dân. Tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo. Tăng cường và nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại; làm tốt công tác người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là những người có công. Hoàn thiện pháp luật, chủ động có giải pháp cụ thể thực hiện và chuẩn bị thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ cộng đồng ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Chương trình hành động triển khai 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu Hội nghị Thượng đỉnh Liên lợp quốc vừa mới thông qua. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp về các cam kết hội nhập quốc tế đã và chuẩn bị ký kết. Thực hiện các biện pháp chính sách để phát huy, tận dụng các cơ hội phát triển và hạn chế tác động tiêu cực do mặt trái của hội nhập mang lại, nhất là các vấn đề về thị trường, khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước, khu vực và thế giới.
7. Về công tác thông tin tuyên truyền
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước về thông tin truyền thông, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Cơ quan nhà nước các cấp có trách nhiệm chủ động cung cấp thông tin, nhất là tình hình kinh tế - xã hội, chủ trương, đường lối, các cơ chế, chính sách, pháp luật, những vấn đề dư luận xã hội quan tâm và cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ sự lãnh đạo và quản lý điều hành của Đảng, Nhà nước cho cơ quan thông tấn, báo chí. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại; trong đó, cần chú trọng đối thoại về cơ chế, chính sách gắn liền với cuộc sống của người dân và hoạt động của doanh nghiệp. Tập trung tuyên truyền về Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử Quốc hội khóa XIV. Đấu tranh, phản bác kịp thời, có tính thuyết phục cao đối với những thông tin sai trái.
Trên đây là báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định./.
Nơi nhận: - Như trên; - Thủ tướng Chính phủ và các PTTg; - Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội (5b); - Văn phòng Chính phủ (20b); - Kiểm toán Nhà nước; - Bộ Tài chính; - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (50b); - Lưu: VT, KTTH (3b). |
| TM. CHÍNH PHỦ TUQ. THỦ TƯỚNG BỘ TRƯỞNG BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ (đã ký) Bùi Quang Vinh |
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
(Kèm theo Báo cáo số 526 /BC-CP ngày 17 tháng 10 năm 2015)
Phụ lục 1: Một số chỉ tiêu tổng hợp
Phụ lục 2: Các chỉ tiêu chủ yếu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
Phụ lục 3: Các chỉ tiêu sản xuất công nghiệp
Phục lục 4: Các chỉ tiêu dịch vụ
Phụ lục 5: Các chỉ tiêu xuất khẩu, nhập khẩu
Phụ lục 6: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Phụ lục 7: Cân đối ngân sách nhà nước
Phụ lục 8: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Phụ lục 9: Các chỉ tiêu xã hội
Phụ lục 10: Các chỉ tiêu giáo dục và đào tạo
Phụ lục 11: Các chỉ tiêu môi trường
[1] Trước đó, NHNN đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ giá, mỗi lần tăng 1% vào tháng 01/2015 và tháng 5/2015.
[2] Một số dự án lớn đăng ký mới hoặc tăng vốn trong 9 tháng đầu năm: Dự án Cty SamSung Display Việt Nam với số vốn đầu tư tăng thêm là 3 tỷ USD (Bắc Ninh); Dự án Nhà máy điện Duyên Hải 2 với tổng vốn đầu tư là 2,4 tỷ USD (Trà Vinh); Dự án Cty TNHH liên doanh thành phố Đế Vương tổng vốn đầu tư là 1,2 tỷ USD (TP Hồ Chí Minh); Dự án Cty TNHH Hyosung Đồng Nai tổng vốn đầu tư 660 triệu USD.
[3] Không kể dầu thô ước đạt 82,15 tỷ USD, tăng 21,1%.
[4] Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 30,2%; Điện tử,máy tính và linh kiện tăng 31%; Điện thoại các loại và linh kiện tăng 33,6%; Nguyên phụ liệu dệt may, da, giầy tăng 9%;...
[5] Không kể dầu thô xuất siêu 8,86 tỷ USD.
[6] Nguyên nhân: (i) Xu hướng chuyển đổi sang giống lúa có chất lượng cao hơn nhưng năng suất thấp hơn; (ii) Chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giảm diện tích đất gieo trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn; (iii) Thời tiết khắc nghiệt, đầu năm rét đậm rét hại, giữa năm nắng nóng khô hạn, thời gian gần đây chịu nhiều đợt mưa, bão, lũ, lụt hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn, nhiều địa phương đã chủ động chuyển đổi mùa vụ, giảm diện tích gieo cấy lúa đông xuân, lúa mùa, lúa hè thu...
[7] Trong 9 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo giảm 8,7% về lượng và giảm 14,4% về kim ngạch (giá giảm 6,3%); xuất khẩu cà phê giảm 30,6% về lượng và giảm 31,6% về kim ngạch (giá giảm 1,5%); xuất khẩu cao su tăng 9,5% về lượng, nhưng giảm 11,6% về kim ngạch (giá giảm 19,2%).
[8] Sản lượng gỗ khai thác 9 tháng ước đạt 5.834 nghìn m3, tăng 11,8% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng trên 95%.
[9] Trong đó 93,5% là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ (vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng). Về lĩnh vực hoạt động: giải thể nhiều nhất là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, chiếm 39,1% về số doanh nghiệp, giảm 4,3% so với cùng kỳ; tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 12,6%, giảm 7,2%; xây dựng chiếm 11,7%, tăng 2,1%.
[10] Trong
đó 93,7% là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ (vốn đăng ký dưới 10 tỷ
đồng). Về lĩnh vực hoạt động: tạm ngừng hoạt động nhiều nhất là lĩnh vực
bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, chiếm 38,1% về số doanh
nghiệp, tăng 15,3% so với cùng kỳ; tiếp đến là lĩnh vực xây dựng, chiếm
15,4%, tăng 11,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 12,8%, tăng
13,1%.
[11] Bước đầu thiết lập mạng đường bộ cao tốc với các tuyến Hà Nội - Lào Cai; Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây; Bến Lức - Long Thành; Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nội - Hải Phòng; Cầu Giẽ - Ninh Bình. Hoàn thành các công trình giao thông quan trọng: Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cầu Nhật Tân, đường cao tốc cầu Nhật Tân - Nội Bài, cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng hàng không Phú Quốc mới, sân bay Thọ Xuân, cải tạo Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, Cảng hàng không Vinh,… Hoàn thành các dự án cải tạo mở rộng Quốc lộ 1, Đưởng Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên vượt so với tiến độ dự kiến 1 năm. Đang xây dựng các tuyến tàu điện ngầm, đường sắt trên cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, đường bộ cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận, Mỹ Thuận - Cần Thơ,… Theo đánh giá 2 năm một lần của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), năm 2014, WEF xếp hạng năng lực và chất lượng hạ tầng giao thông Việt Nam đứng vị trí 74, tăng 16 bậc so với năm 2012 và tăng 29 bậc so với năm 2010.
[12] Trong 5 năm 2011-2015, đã tăng thêm 16,8 nghìn MW công suất nguồn; khoảng 7,6 nghìn km truyền tải 50 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành và đang được xây dựng như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu; Nhiệt điện Duyên Hải, Vĩnh Tân; đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Vân Đồn…
[13] Đến năm 2015 bảo đảm tưới trực tiếp cho 3,5 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn tưới cho hơn 1 triệu ha, tiêu cho 1,7 triệu ha; tỉ lệ đô thị hóa dự báo đạt khoảng 35%.
[14] Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 04/02/2015 của Chính phủ đã giao Bộ Tài chính đề xuất cấp có thẩm quyền bổ sung kinh phí từ năm 2015 cho Chương trình MTQG xây dựng NTM từ nguồn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
[15] Cả nước còn 4 tỉnh chưa có xã đạt chuẩn: Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn và Đăk Nông.
[16] Xuân Lộc, Long Khánh (Đồng Nai); Đông Triều (Quảng Ninh); Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh); Hải Hậu (Nam Định); Đơn Dương (Lâm Đồng).
[17] Đan Phượng (TP Hà Nội); Hóc Môn, Nhà Bè (TP.Hồ Chí Minh); Hòa Vang (TP Đà Nẵng) và Phước Long (Bạc Liêu).
[18] Không bao gồm bổ sung 30.000 tỷ đồng giải ngân vốn nước ngoài nguồn ngân sách nhà nước năm 2015 theo các hiệp định đã ký kết với các nhà tài trợ và tiến độ thực hiện, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại văn bản số 499/CP-KTTH ngày 12 tháng 10 năm 2015.
[19] .....: Giai đoạn 2006-2010 Quốc hội không giao chỉ tiêu, nên không tính toán số liệu thực hiện.
[20] Tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng dần: năm 2011 là 12,74%, năm 2012 là 17,22%, năm 2013 là 18,37%.
[21] Bao gồm 30.000 tỷ đồng từ khoản thu bán bớt phần vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp.
[22] Lương tối thiểu vùng năm 2016 sẽ tăng thêm 12,4%. Các mức tăng được đề xuất dao động từ 400 nghìn đồng cho vùng 1 tới 250 nghìn đồng cho vùng 4, với mức chênh lệch giữa các vùng là 50 nghìn đồng.
Cử tri gửi Quốc hội nhiều kiến nghị giải quyết các vấn đề hệ trọng  (20/10/2015)
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Lào  (20/10/2015)
Toàn văn phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ 10 của Chủ tịch Quốc hội  (20/10/2015)
Khai mạc trọng thể Kỳ họp lần thứ 10, Quốc hội khóa XIII  (20/10/2015)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển