Phát triển du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc

TS. Trần Hữu Sơn, ThS. Trần Thùy Dương Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam
22:27, ngày 10-07-2015

TCCSĐT - Thời gian gần đây, Tây Bắc xuất hiện nhiều điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn, đóng góp không nhỏ vào công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, một số điểm du lịch cộng đồng vào những năm 2010, 2011 phát triển khá mạnh, thu hút đông đảo du khách đến thăm quan nhưng đến nay lại vắng khách. Thực trạng này đặt ra nhiều vấn đề cần suy ngẫm và giải quyết.

Thực trạng du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc

Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên của cộng đồng, do cộng đồng chủ động tham gia xây dựng sản phẩm quản lý và vì lợi ích của cộng đồng. Du lịch cộng đồng được xây dựng và phát triển ở vùng người Thái ở bản Lác, huyện Mai Châu (Hòa Bình) vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đến năm 2000, người Tày ở bản Dền, xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai cũng triển khai xây dựng mô hình du lịch cộng đồng. Sau gần 20 năm phát triển, đến nay, du lịch cộng đồng được xây dựng thành công ở vùng người Thái, người Tày, người Dao, Mông tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái... Nhiều điểm du lịch cộng đồng thu hút hàng vạn du khách, như Bản Dền (Lào Cai) đón 12.000 lượt khách quốc tế (năm 2008), các điểm du lịch cộng đồng ở Mai Châu (Hòa Bình) đón 300.000 lượt du khách, trong đó có 100.000 lượt du khách quốc tế (năm 2014). Các điểm du lịch cộng đồng, như bản Lác, bản Văn (huyện Mai Châu, Hòa Bình), bản Áng (huyện Mộc Châu, Sơn La), bản Mển, Phiêng Lơi (Điện Biên)... trở thành những điểm đến quen thuộc của các hãng lữ hành và các tour du lịch vùng Tây Bắc. Du lịch cộng đồng đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo nguồn sinh kế mới cho người dân vùng cao. Các điểm du lịch cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai) có tốc độ xóa đói, giảm nghèo nhanh gấp 3 lần so với các thôn, bản không có du lịch. Năm 2012, số hộ nghèo ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) chiếm 25%, trong khi ở các điểm du lịch cộng đồng, số hộ nghèo chỉ chiếm từ 8 - 11%. Du lịch cộng đồng đem lại nguồn thu khá lớn cho người dân và xã hội. Ở bản Mển, xã Thanh Nưa, thành phố Điện Biên, có 110 hộ dân và có tới 25 hộ gia đình có người tham gia các dịch vụ du lịch. Năm 2014, bản Mển đã đón 1.200 đoàn khách tới thăm. Vào dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, bản Mển mỗi ngày đón 5 đoàn khách đến thăm. Bản Phiêng có cảnh quan đẹp, có 30 hộ gia đình tham gia dịch vụ du lịch, những tháng đông khách mỗi hộ cũng thu được từ 3-5 triệu đồng.

Ở Lào Cai, du lịch cộng đồng phát triển khá mạnh. Năm 2013, các điểm du lịch cộng đồng tại huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai đón 247.327 lượt khách; năm 2014 đón trên 300.000 lượt khách (riêng bản Dền, xã Bản Hồ năm 2013 đón 19.263 lượt khách; năm 2014 đón trên 20.000 lượt khách). Năm 2014 thu nhập bình quân từ du lịch cộng đồng ở bản Dền, Tả Van của mỗi hộ gia đình là 25-60 triệu đồng/năm, có một số hộ đạt 70-90 triệu đồng/năm. Nguồn thu của các hộ làm dịch vụ du lịch cao gấp từ 5-10 lần so với các hộ không làm du lịch. Nhờ du lịch cộng đồng phát triển mà các ngành nghề thủ công (sản xuất thổ cẩm, chạm khắc bạc, làm đồ lưu niệm...) và dịch vụ phục vụ du lịch cũng tạo hàng nghìn việc làm cho người dân. Ở Lào Cai, các điểm du lịch cộng đồng đã giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động.

Bên cạnh kết quả đã đạt được, các điểm du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc còn một số hạn chế. Nhiều tỉnh phát triển du lịch cộng đồng một cách ồ ạt, không có quy hoạch, dẫn đến sự cạnh tranh khá khốc liệt. Một số điểm du lịch trước kia đón hàng nghìn khách quốc tế mỗi năm thì nay vắng khách. Trong cuộc phỏng vấn phiếu điều tra du khách của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (tháng 12-2014) có tới từ 65% - 75% du khách quốc tế không muốn trở lại các điểm du lịch cộng đồng. Ở huyện Vân Hồ và Mộc Châu (tỉnh Sơn La), các điểm du lịch cộng đồng như bản Phụ Mẫu 1, bản Phụ Mẫu 2, bản Nà Bai, số du khách đã suy giảm nghiêm trọng. Nhiều hộ gia đình đầu tư hàng chục triệu đồng làm phòng nghỉ, nhà vệ sinh phục vụ du lịch... thì nay không có khách. Phỏng vấn sâu 10 hãng lữ hành đưa khách du lịch đi vùng người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình), Mộc Châu, Vân Hồ (Sơn La) và Điện Biên đều có nhận xét chung là du khách chỉ thăm một làng du lịch cộng đồng thì đã biết trước các sản phẩm du lịch của các làng khác, đều ngủ nhà sàn, ăn cơm lam, xem xòe Thái, uống rượu cần...

Tình trạng phát triển du lịch cộng đồng không hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là, chính quyền địa phương và người dân nhận thức du lịch cộng đồng dễ làm, đầu tư ít nên phát triển khá ồ ạt. Có tỉnh xây dựng 18 làng du lịch văn hóa, có tỉnh dân số không đông, điều kiện tự nhiên, bản sắc văn hóa của một tộc người không có nét khác biệt nhưng cũng có chủ trương xây dựng hơn 70 làng văn hóa du lịch. Hệ quả là 3/4 số làng đó không đón được du khách. Thứ hai là, chính quyền địa phương chưa giải được bài toán giữa phát triển du lịch với phát triển các ngành nghề khác. Điển hình là huyện Sa Pa, điểm du lịch cộng đồng ở bản Dền năm 2008 đã thu hút gần 25.000 lượt khách nhưng do làm thủy điện, cảnh quan môi trường bị xâm hại nghiêm trọng nên lượng du khách giảm sút nhanh chóng (năm 2009 chỉ có gần 500 khách đến thăm). Vấn đề đô thị hóa các bản vùng ven thành phố cũng là nguyên nhân làm nghèo tài nguyên du lịch. Có điểm du lịch như bản Ten, xã Thanh Xương, thành phố Điện Biên là một điểm du lịch quen thuộc của những năm 2004 - 2010; nhưng một vài năm gần đây, do đô thị hóa, nhà cao tầng mọc lên, đường bê-tông hóa như thành phố nên các hãng lữ hành không đưa khách đến. Thứ ba là, các cơ quan quản lý nhà nước, người dân và chính quyền địa phương chưa nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch trên cơ sở của bản sắc văn hóa dân tộc vùng Tây Bắc. Đây được xem là nguyên nhân quan trọng nhất. Người Thái ở mỗi vùng đều có đặc trưng văn hóa khác nhau; cảnh quan môi trường tự nhiên ở các vùng trong khu vực Tây Bắc cũng khác nhau nhưng các cơ quan quản lý về du lịch cũng như người dân và doanh nghiệp chưa nghiên cứu sâu về đặc trưng văn hóa vùng Tây Bắc để tìm ra sắc thái riêng. Vì vậy, các mô hình du lịch cộng đồng và sản phẩm du lịch thường được xây dựng tương tự như nhau. Vì vậy, có du khách đã nhận xét không cần đi cả vùng Tây Bắc, chỉ cần đến một làng du lịch cộng đồng cũng biết được sản phẩm du lịch của toàn vùng.

Khuyến nghị và giải pháp

Phát triển du lịch cộng đồng ở vùng Tây Bắc là một động lực quan trọng để xây dựng nông thôn mới, góp phần xóa đói, giảm nghèo. Nhưng muốn phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững đòi hỏi các địa phương phải phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc để xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, phù hợp từng vùng, có quy hoạch và chọn lọc, hấp dẫn với từng đối tượng du khách. Vùng Tây Bắc cũng cần phải xây dựng một chiến lược phát triển du lịch cộng đồng hiệu quả, có những chính sách, cơ chế mang tính đặc thù và các giải pháp đồng bộ như sau:

Một là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu bản sắc văn hóa và tính đặc thù của từng địa phương, phục vụ hiệu quả cho phát triển du lịch cộng đồng.

Chính quyền các cấp cần tiến hành quy hoạch các điểm du lịch cộng đồng, tránh tình trạng xây dựng tràn lan, tự phát. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, thị hiếu của du khách để xây dựng các điểm du lịch cộng đồng hiệu quả. Lựa chọn vị trí điểm du lịch cộng đồng là các bản không quá xa các trung tâm đô thị để thuận lợi cho việc di chuyển và công tác lưu trú (khoảng cách từ khu vực trung tâm đến các điểm du lịch cộng đồng thuận lợi nhất là 10-15km).

Điểm du lịch cộng đồng phải được xây dựng trên cơ sở các bản, làng dân tộc thiểu số giàu tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch tự nhiên. Trong đó các bản phải có phong cảnh đẹp, mang sắc thái riêng của từng vùng, (ví dụ kiến trúc nhà sàn mang bản sắc riêng của từng ngành người Thái, ngành Thái trắng, Thái đen, Thái Mai Châu... hoặc nhà sàn của người Tày, người Mường). Cần xem xét lại chủ trương xây dựng tiêu chí nông thôn mới về giao thông, có thể sử dụng đường lát đá, đường đất ở các làng du lịch chứ không nhất thiết bê-tông hóa. Về tài nguyên du lịch nhân văn, bản du lịch cộng đồng còn có các nghề thủ công, lưu giữ kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, như ẩm thực, nghệ thuật dân gian, trò chơi dân gian, tín ngưỡng dân gian...

Hai là, nghiên cứu khai thác, xây dựng tài nguyên du lịch thành các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, phù hợp với nhu cầu của du khách.

Sản phẩm du lịch là tổng thể các dịch vụ, hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách. Nguyên tắc xây dựng các sản phẩm du lịch là chắt lọc từ tài nguyên du lịch, căn cứ vào thị hiếu và nhu cầu của du khách để xây dựng. Nhưng các sản phẩm đó phải mang tính bền vững, bảo vệ được môi trường và cảnh quan, giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người. Các điểm du lịch cộng đồng cũng cần lựa chọn đối tượng du khách (khách nội địa, khách quốc tế) để xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch phù hợp, cụ thể là:

Thứ nhất là vấn đề đón khách.

Đón khách là hành động đầu tiên của cộng đồng tiếp xúc với du khách, hành động này thường để lại dấu ấn trong lòng du khách vì vậy cần nghiên cứu các hình thức đón khách cổ truyền của vùng Tây Bắc (đón khách trong lễ cưới, đón khách trong lễ mừng nhà mới...) để xây dựng kịch bản đón khách phù hợp. Trong giao tiếp truyền thống, con người vùng Tây Bắc rất hiếu khách nhưng khi mới gặp hay e dè ít hồ hởi, không thể hiện “tay bắt, mặt mừng”. Thậm chí, có chủ nhà còn để khách đợi rất lâu mới bố trí chỗ ăn nghỉ cho du khách. Do đó cần tập huấn, hướng dẫn cho cộng đồng có thái độ tự tin trong xã giao đón, tiếp khách. Trong những trường hợp đón những đoàn khách đông người, cộng đồng và từng gia đình xây dựng kịch bản trình diễn nghi lễ đón khách (có cả dân ca, dân vũ, dân nhạc...) tại vị trí đầu bản hoặc chân cầu thang của từng gia đình.

Thứ hai là dịch vụ lưu trú.

Người Thái, người Tày cư trú ở nhà sàn - loại hình nhà ở phù hợp với đón khách cộng đồng. Hầu hết các điểm du lịch cộng đồng ở nổi tiếng ở miền núi đều sử dụng mô hình đón khách lưu trú ở nhà sàn. Người Dao áo dài ở thôn Nậm Đăm, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, đón khách ở những ngôi nhà nửa sàn, nửa đất. Người Giáy ở Tả Van, Sa Pa đón khách ở nhà đất nhưng có tầng gác sàn. Nhà sàn thích hợp với kiểu ngủ cộng đồng đông người. Tuy nhiên, tùy theo đoàn khách, các gia đình cần phân khu hoặc làm phòng riêng phù hợp. Điểm cần thiết nhất đối với dịch vụ lưu trú là khu vệ sinh phải đặc biệt được coi trọng. Nơi tắm rửa, vệ sinh phải xây dựng hiện đại, sạch sẽ, các trang thiết bị cần được thiết kế từ các nguyên vật liệu gần gũi với thiên nhiên (chao đèn, ống dẫn nước, rèm cửa...)

Thứ ba là dịch vụ ăn, uống.

Vùng Tây Bắc nổi tiếng có những món ăn ngon, độc đáo nổi tiếng, gắn với điều kiện tự nhiên. Vì vậy, người làm du lịch cần nghiên cứu sâu về văn hóa ẩm thực đặc trưng vùng Tây Bắc nhưng đồng thời cũng chú trọng đến nhu cầu ẩm thực của từng đoàn khách, tránh tình trạng lặp đi lặp lại một vài món quen thuộc, như cơm lam, cá nướng, rượu cần...

Thứ tư là dịch vụ giải trí.

Du khách đến vùng Tây Bắc đều có nhu cầu trải nghiệm đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Do vậy, các nghệ nhân ở các bản cần chắt lọc từ di sản nghệ thuật dân gian để xây dựng chương trình nghệ thuật hấp dẫn, tránh các tiết mục “cải biên, cải tiến” xa lạ với với người dân. Các chương trình này nên bố trí thời lượng vừa phải với kết cấu hợp lý, có tính hấp dẫn, xây dựng theo loại hình diễn xướng dân gian. Đặc biệt, cần có sự giao lưu, hòa đồng giữa du khách với cộng đồng bản địa. Bên cạnh nhu cầu thưởng thức văn nghệ, du khách rất khao khát được trải nghiệm cuộc sống dân dã. Vì thế, các điểm du lịch cộng đồng cần nghiên cứu xây dựng các chương trình trải nghiệm, như hội thi bắt cá suối, quăng chài, thả lưới bắt cá ao, tham gia dệt thổ cẩm, chế biến món ăn...

Thứ năm là dịch vụ đi lại.

Địa bàn cư trú của người Tây Bắc có nhiều loại địa hình khác nhau. Các điểm du lịch cộng đồng cần nghiên cứu xây dựng các hình thức vận chuyển, đi lại truyền thống cho du khách, như tổ chức xe trâu đưa du khách đi thăm quan; tổ chức đi thuyền đuôi én, đi bè, đi thuyền độc mộc...

Thứ sáu là sản xuất đồ lưu niệm.

Cần nghiên cứu sản xuất các đồ lưu niệm từ ngành nghề thủ công truyền thống của từng vùng, như ở Sa Pa có thổ cẩm đặc trưng của người Mông, người Dao, ở Mường Thanh có thổ cẩm người Thái… Kiên quyết chống các loại hàng giả, hàng nhái (như hàng bạc giả, thuốc nam không có tác dụng chữa bệnh...). Đặc biệt chú ý khuyến khích các nghệ nhân giảm giá bán đồ thủ công, nghiên cứu các mẫu mã mới phù hợp nhu cầu du khách.

Ba là, xây dựng các sản phẩm đặc thù có quy mô lớn thu hút nhiều đối tượng du khách tham gia.

Người Thái ở Mường Thanh có huyền thoại về quê cha, đất tổ. Huyền thoại này được vật thể hóa bằng các địa danh, dòng sông, ngọn núi, địa điểm cụ thể. Người Thái ở một số quốc gia Đông Nam Á cũng coi Mường Thanh như vùng đất tổ, đất thiêng. Vì thế ngành văn hóa, Thể thao và Du lịch vùng Tây Bắc cần định kỳ xây dựng “Ngày văn hóa Thái”, xây dựng tour du lịch “Hành trình về cội nguồn tổ tiên”… Khu thủy điện Sơn La, thủy điện Lai Châu được xây dựng đã hình thành vùng hồ rộng lớn. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng các sản phẩm du lịch mang đặc trưng sông nước, như lễ hội đua thuyền, tour du lịch trên sông Đà, hệ thống một số làng du lịch ven sông… Mỗi vùng người dân tộc thiểu số đều có cảnh quan, kiến trúc riêng. Cần nghiên cứu bảo tồn và phục dựng các bản người Thái, người Tày, người Mường,… cổ truyền phù hợp với từng vùng. Có thể phục dựng, bảo tồn một số bản, trong đó chú trọng bảo tồn nhà cửa, khuôn viên, điểm tín ngưỡng, rừng cấm… Bản người Thái có hệ thống thủy lợi “mương phai, lái, lin”, hệ thống cọn nước, guồng nước là những hình ảnh thu hút nhiều du khách cần được xây dựng.

Bốn là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho du lịch cộng đồng.

Du lịch cộng đồng là cánh cửa mở cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn người dân tộc thiểu số, góp phần xóa đói, giảm nghèo hiệu quả. Cần có chính sách ngân hàng cho các hộ gia đình vay với lãi suất thấp hoặc lập các quỹ du lịch hỗ trợ cho cộng đồng để đồng bào các dân tộc thiểu số có kinh phí xây dựng nhà cửa và các công trình vệ sinh phục vụ du lịch cộng đồng. Mặt khác, Nhà nước cần có một số chế độ ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đưa khách đến với vùng du lịch cộng đồng, như chế độ giảm thuế, cho vay ưu đãi...

Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả, phân chia nguồn lợi cho cộng đồng công bằng, bình đẳng.

Xây dựng các điểm du lịch cộng đồng là công việc mới mẻ đối với người dân. Đây là lĩnh vực kinh doanh phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp của bốn “nhà”. Trước hết, chủ nhân của điểm du lịch - đồng bào các dân tộc cần phải tự nguyện tham gia một cách sáng tạo với ban quản lý hiệu quả, có quy chế hoạt động thiết thực, dân chủ. Cộng đồng là chủ nhân cho nên phải được hưởng lợi phù hợp, tránh tình trạng “người chủ” thì nghèo mà doanh nghiệp đưa khách đến lại giàu. Tiếp đến, doanh nghiệp là đối tác đưa khách đến điểm du lịch. Nhờ có doanh nghiệp điểm du lịch cộng đồng mới phát triển được. Doanh nghiệp đóng vai trò cung cấp khách nhưng đồng thời cũng đóng vai trò hỗ trợ vốn cho cộng đồng, tập huấn cho cộng đồng. Bên cạnh đó, các nhà tư vấn, các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò nghiên cứu tư vấn cho người dân, chính quyền địa phương, doanh nghiệp xây dựng các mô hình du lịch cộng đồng. Kinh doanh du lịch là một ngành mới, lại phức tạp nên rất cần thiết có nhà tư vấn, nhà khoa học tham gia. Cuối cùng, cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, xây dựng các cơ chế chính sách đặc thù cho các điểm du lịch cộng đồng. Đây cũng là lực lượng điều hòa lợi ích giữa người dân với doanh nghiệp. Như vậy, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa người dân, doanh nghiệp, nhà khoa học và cơ quan quản lý nhà nước một cách hữu cơ, mật thiết để phát triển bền vững du lịch cộng đồng Tây Bắc.