Quyết sách của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Những chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn giai đoạn 2001 - 2020
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy, khóa X (với Nghị quyết 26-NQ/TW) bên cạnh khẳng định những thành tựu đạt được đã chỉ ra 5 yếu kém trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và đời sống nông dân nước ta trước năm 2008.
Để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong những năm tới, Nghị quyết nêu 4 quan điểm chỉ đạo: Một là, khẳng định vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là quan trọng, chiến lược lâu dài; Hai là, xác định rõ mối quan hệ và yêu cầu giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Ba là, nhấn mạnh các điều kiện và phương hướng giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Bốn là, xác định trách nhiệm của hệ thống chính trị, của toàn xã hội và vai trò chính của giai cấp nông dân trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Bốn nhóm quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết 26-NQ/TW đã thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng về vị trí chiến lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn có vị trí quan trọng, chiến lược, lâu dài, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Điểm mới trong quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là tập trung giải quyết cơ bản và đồng bộ cả 3 vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn; xác định rõ mối quan hệ hữu cơ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; quan hệ khăng khít giữa 3 thành tố nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xác định vị trí, vai trò mỗi thành tố… Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Nghị quyết đã xác định: nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Điều kiện và phương hướng giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực. Trong đó, chú trọng để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy cao nội lực trong nông thôn; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí.
Trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là của hệ thống chính trị, của toàn xã hội và vai trò của giai cấp nông dân.
Nghị quyết tập trung đánh giá cao vai trò chủ thể của nông dân, khẳng định, để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn cần phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường, vươn lên của nông dân; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú làm nền tảng tinh thần của giai cấp nông dân, tạo động lực cho quá trình nâng cao mức sống của nhân dân để phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Nghị quyết Trung ương 7 khóa X đã xác định rõ 3 cấp độ mục tiêu: dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó, ưu tiên giải quyết các công việc cấp bách đang đặt ra, đồng thời chú trọng tập trung cho mục tiêu dài hạn, trung hạn.
Mục tiêu dài hạn bao gồm: không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại; xây dựng nông thôn mới.
Mục tiêu trung hạn đến năm 2020:
- Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia kể cả trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn lên gấp trên 2,5 lần so với hiện nay.
- Duy trì lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; bảo đảm giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã, cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng, chống bão, lũ, ngăn mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
Để vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong những năm tới được giải quyết đồng bộ, đạt mục tiêu trung hạn, Nghị quyết nêu 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp lớn:
Thứ nhất, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Thứ hai, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị.
Thứ ba, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn.
Thứ tư, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn.
Thứ năm, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn.
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Thứ tám, những nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện tới năm 2010.
Nghị quyết nêu các công việc và giao cho các cơ quan tổ chức thực hiện nhằm đưa Nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống, tập trung vào nội dung chính là: (1) Về tổ chức nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết; (2) Về thể chế hóa các quan điểm của Nghị quyết; (3) Về tạo ra phong trào thực hiện Nghị quyết trong nhân dân; (4) Về theo dõi, đôn đốc thực hiện tiến độ triển khai Nghị quyết.
Triển khai Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, về “Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Mục tiêu của Chương trình hành động là khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm:
- Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng 3,5 - 4%/năm; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn tăng trên 2,5 lần so với hiện nay.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là ở các vùng còn nhiều khó khăn; tạo điều kiện thuận lợi để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; xây dựng nông thôn mới bền vững theo hướng văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn đạt gần với mức các đô thị trung bình.
- Nâng cao năng lực phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng.
Nghị quyết đề ra 5 nhiệm vụ chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, được đặt vào vị trí hàng đầu, với nội dung chính: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ. Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp quy hoạch không gian xây dựng làng (ấp, thôn, bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; kết hợp giữa hỗ trợ của Nhà nước với phát huy nội lực của cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức tốt đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hóa gồm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, thực hiện “mỗi làng một nghề”.
Chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Để Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, Đảng đã định hướng chiến lược phát triển vùng cụ thể bằng Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20-01-2003 của Bộ Chính trị, khóa IX, “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, đã nêu rõ phương hướng huy động cao nhất nguồn lực, trước hết là nội lực của các thành phần kinh tế, đặc biệt tập trung phát huy nhân tố con người, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, kể cả vùng biển và thềm lục địa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung; phát triển kinh tế biển, chú trọng nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, du lịch, vận tải biển…; xây dựng Đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả bền vững; gắn phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp; các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào Khơ-me và nhân dân vùng ngập lũ; phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc phòng vững chắc(1).
Về nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết nhấn mạnh:
- Đối với nông - lâm - ngư nghiệp, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và giá trị sản xuất trên một héc-ta đất canh tác. Ổn định sản lượng và nâng cao chất lượng lúa gạo, bảo đảm an ninh lương thực cho đất nước và góp phần xuất khẩu, chuyển một phần diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các cây khác hoặc nuôi trồng thủy sản có hiệu quả như ngô, bông, đay, vừng, đỗ tương, cây ăn quả, nuôi tôm, cá. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi tương xứng với tiềm năng, chú trọng phát triển chăn nuôi lợn, vịt, gà, bò thịt, bò sữa… để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu.
- Phát triển nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có quy hoạch đồng bộ và đầu tư bảo đảm giống tốt, thức ăn, cơ sở chế biến để mở rộng nuôi tôm thâm canh, nuôi xen canh, luân canh. Phát triển mạnh nuôi cá basa và cá đồng. Phát triển đánh bắt xa bờ, dịch vụ nghề cá. Tăng cường công tác khuyến ngư, đào tạo nghề cho ngư dân, giúp đỡ các hộ ngư dân chuyển đổi ngành nghề sản xuất.
- Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa nông dân, ngư dân với các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm, các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ. Hình thành hệ thống tổ chức phù hợp để đẩy mạnh nghiên cứu, nhập ngoại và ứng dụng công nghệ sinh học, tạo giống cây trồng và vật nuôi tốt, bảo quản và chế biến nông, thủy sản, thực phẩm; nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mới tiên tiến và phù hợp để sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp có hiệu quả; sớm đạt ngang bằng trình độ tiên tiến của khu vực về các lĩnh vực này.
Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011-2020”
Bộ Chính trị đã xem xét Báo cáo kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, ý kiến các cơ quan có liên quan và có kết luận, trong gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương trong vùng đã nỗ lực phấn đấu thực hiện sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo ra bước đổi mới toàn diện cho cả vùng và góp phần đáng kể vào thành tựu chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch và phát triển đúng hướng, với quy mô, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của vùng đã khẳng định vị thế trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu cả nước. Các chương trình phục vụ an sinh đã góp phần ổn định cuộc sống người dân, nhất là đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng ngập lũ. Nhiều lĩnh vực văn hóa, xã hội đã từng bước phát triển khá và ngày càng ổn định. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể(2)...
Kết luận cũng đã chỉ ra những tồn tại, yếu kém của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đó là tăng trưởng kinh tế thiếu vững chắc, tiềm năng, lợi thế của vùng chưa được đầu tư, khai thác đúng tầm; hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn còn hạn chế và thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi; mặt bằng học vấn của vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước; công tác quy hoạch vùng, ngành, lĩnh vực còn chậm, tính khả thi chưa cao; một số nơi thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số hiệu quả còn hạn chế; tranh chấp đất đai nông thôn còn diễn biến phức tạp... Những hạn chế trên do việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị còn chậm, cơ chế chính sách phát huy lợi thế tiềm năng Đồng bằng sông Cửu Long chưa đồng bộ...
Xuất phát từ thực trạng trên cùng với quyết tâm quán triệt, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, Bộ Chính trị đã định phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, trong đó chú trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên các mặt:
- Xây dựng và phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long trở thành trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững.
- Tập trung hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển công nghiệp năng lượng, sinh hóa, công nghiệp chế tác trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hình thành cơ bản hệ thống đê điều, cống đập ngăn mặn, ứng phó với nước biển dâng và tác động của thượng nguồn sông Mê Kông.
- Phát triển kinh tế - xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước. Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, giải quyết an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; hoàn thành mục tiêu xây dựng 50% xã nông thôn mới.
- Phấn đấu đạt chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 939-QĐ/TTg, ngày 09-7-2012./.
------------------------------------------------
(1) Ban Chấp hành Trung ương, 2003. Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001 - 2010
(2)Ban Chấp hành Trung ương, 2012, Kết luận số 28-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI
Lữ đoàn Công binh 414 - Quân khu 4 đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh  (16/07/2013)
Lữ đoàn Công binh 414 - Quân khu 4 đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh  (16/07/2013)
Tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và Sri Lanka  (15/07/2013)
Nhật Bản luôn dành hỗ trợ ưu tiên tối đa cho Việt Nam  (15/07/2013)
Nhất trí tăng hợp tác Quốc hội Việt Nam - Sri Lanka  (15/07/2013)
Đổi mới công tác dân vận, bắt kịp đời sống của dân  (15/07/2013)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên