Một số ý kiến về đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức

TS. Lê Văn Cường Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
16:36, ngày 22-04-2013

TCCSĐT - Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của một quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm tới đội ngũ trí thức và có những chính sách phù hợp nhằm đoàn kết, tập hợp, thu hút sự đóng góp của họ cho đất nước.

Kết luận số 51-KL/TW ngày 29-10-2012 Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XI về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” chỉ rõ: “giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, có mặt nặng nề hơn” (1) .

Sự bất cập trong giáo dục và đào tạo còn thể hiện ở tính thiếu ổn định về chương trình đào tạo, thiếu thống nhất về sách giáo khoa, giáo trình và các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục. Điều đó dẫn đến sự hụt hẫng rất lớn nguồn nhân lực có chất lượng cao và không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay, chúng ta có 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 24.300 tiến sĩ, 101 nghìn thạc sĩ; độ tuổi bình quân là 38,5. Tuy nhiên, hơn 60% tiến sĩ đã ở độ tuổi trên 50; trên 21% ở độ tuổi 40 - 49; độ tuổi 30 - 39 là 16% và 2,8% là độ tuổi 20 - 29 (2).

Như vậy, nếu trừ đi số tiến sĩ đến tuổi nghỉ hưu thì đến năm 2020 cũng chỉ còn hơn 20.000 người tức là vẫn như hiện nay. Trong khi Xin-ga-po có dân số là 4,5 triệu người nhưng đã có tới 27.300 người đạt trình độ tiến sĩ làm nghiên cứu khoa học; Thái Lan có 20.500 người có trình độ tiến sĩ làm nghiên cứu khoa học, trong khi Việt Nam chỉ có 9.328/24.300 tiến sĩ tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học.

Đầu tư cho nghiên cứu khoa học tính theo đầu người của Việt Nam là 3,1 USD trong khi của Xin-ga-po là 1.341USD, gấp 430 lần của Việt Nam; Ma-lai-xi-a là 71,1 USD, gấp 25,7 lần; Thái Lan là 18 USD gấp gần 6 lần; riêng Phi-líp-pin chỉ đầu tư 3,4 USD/người nhưng con số đó vẫn cao hơn của Việt Nam. 

Xét về đào tạo nghề, lao động giản đơn chưa qua đào tạo và lao động bậc 1, 2, 3 chiếm 55%, bậc 4, 5 chiếm 23,9%, bậc 6, 7 chiếm 8,4%, trung cấp chiếm 11,1%, đại học và sau đại học chiếm 1,6%. Điều này cho thấy có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa lực lượng lao động có tay nghề cao và lao động có tay nghề thấp. Số công nhân có trình độ tay nghề thấp chiếm tỷ lệ quá cao (55%), trong khi số công nhân có trình độ cao ở mức bậc 6, bậc 7 lại quá thấp (8,4%).

Qua đó, chúng ta thấy chủ trương công nhân hóa trí thức và trí thức hóa công nhân chưa đi vào thực tế. Nguyên nhân là do chúng ta chưa có chính sách khuyến khích đúng mức trong học tập nâng cao trình độ và tâm lý “sĩ tử” còn đè nặng trong cộng đồng. Chính điều đó đã tạo ra một áp lực rất lớn cho các gia đình và bản thân thí sinh là bằng mọi giá phải tiến thân bằng con đường học hành. Điều này vô hình trung đã tự làm suy yếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật.

Bên cạnh đó, cơ cấu ngành nghề trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đang có sự mất cân đối nghiêm trọng: trong hơn 1 triệu cán bộ có trình độ đại học mới được đào tạo thời gian qua, có 33,33% ngành sư phạm; khoa học xã hội 17%; khoa học kỹ thuật 25,5%; khoa học tự nhiên 6,8%; y dược 9,3%; nông nghiệp 8,1% (3). Sự mất cân đối về cơ cấu đó đã làm biến dạng nhu cầu thực tế trong xã hội, khiến nước ta lâm vào tình trạng “vừa thiếu, vừa thừa” nhân lực. Những lĩnh vực mũi nhọn cần phải chú trọng đào tạo lại chưa có chính sách hỗ trợ kịp thời; những lĩnh vực thiết yếu trong cộng đồng như vấn đề nông nghiệp nông thôn lại bị xem nhẹ nên hệ quả là chúng ta lãng phí rất nhiều tiền của, nhân lực cho giáo dục và đào tạo nhưng lại không sử dụng được hoặc sử dụng một cách lãng phí. Ngay trong đào tạo sau đại học cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng khi mà tính ứng dụng của luận văn, luận án không cao và phần nhiều là “đắp chiếu” trong các thư viện mà không được hoặc không sử dụng được.

Mặc dù nước ta còn là một nước nghèo nhưng ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo mỗi năm một tăng từ 11% tổng chi ngân sách năm 1996 lên 15% năm 2000 và đến năm 2005 là 18%. Gần nhất, theo Thông tư số 99/2012/TT-BTC hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2013, Bộ Tài chính yêu cầu các ban, ngành liên quan bố trí dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2013 (bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi cải cách tiền lương) đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề đạt 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Đây là sự cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước ta nhưng đầu tư mà không đi kèm với cơ chế kiểm tra, giám sát thì tất yếu dẫn đến hiệu quả thấp.

Trong các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra thì tham nhũng được coi là quốc nạn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Nạn tham nhũng, lãng phí không trừ một lĩnh vực nào và giáo dục đào tạo cũng không nằm ngoài sự tác động của nó. Vấn đề đặt ra là cần có chính sách quản lý, sử dụng nguồn kinh phí mà Nhà nước dành cho giáo dục và đào tạo sao cho có hiệu quả. Mặc dù chúng ta đã có Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nhưng giáo dục và đào tạo có những nét đặc thù nên việc đổi mới chính sách trong lĩnh vực này là rất cần thiết.

Việc sử dụng ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo phải có kế hoạch hợp lý nhằm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức bảo đảm về chất lượng, số lượng và có cơ cấu đồng bộ. Tránh đầu tư dàn trải mà cần có sự ưu tiên cho một số lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn và những ngành công nghệ cao. Trong việc thực hiện các đề tài cũng như các chương trình giáo dục và đào tạo phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, đánh giá chất lượng một cách khoa học và có chế tài xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm. Việc xử lý có thể thực hiện theo cách phạt tiền hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo hậu quả mà chủ thể thực hiện gây ra khi họ cố tình lợi dụng ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo để tham nhũng.

Sự điều chỉnh đầu tiên về chính sách giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức chính là quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức, giảng viên ở các trung tâm giáo dục và đào tạo. Đây chính là tiền đề tạo nên sự đột phá cho giáo dục và đào tạo bởi họ chính là người trực tiếp truyền đạt kiến thức chuyên môn và góp phần tạo ra diện mạo mới cho đội ngũ trí thức trong tương lai. Cần mạnh dạn đưa các viện nghiên cứu, nhất là về các lĩnh vực khoa học cơ bản, về các trường đại học. Biện pháp này vừa đẩy mạnh được nghiên cứu vừa nâng cao được chất lượng giáo dục đào tạo, lại tiết kiệm được kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Trình độ giảng viên đại học còn chênh lệch quá lớn. Nhiều trường hẫng hụt giảng viên khi lớp cán bộ giỏi đến tuổi về hưu. Chính sách hướng tới đối tượng này là tạo ra hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho họ sáng tạo. Đội ngũ trí thức trong các trung tâm giáo dục và đào tạo cần phải tự đổi mới mình, không rập khuôn, cứng nhắc. Muốn vậy, phải có chính sách thực hiện dân chủ hóa trong sinh hoạt khoa học trên cơ sở các nguyên tắc. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học được phép tự do về tư tưởng nhưng phải trong khuôn khổ, không tán phát những tài liệu, ý kiến còn trong giai đoạn nghiên cứu và chưa có kết luận cuối cùng. Trong giảng dạy, cần hết sức nghiêm túc, tránh tùy tiện theo hướng chủ quan cá nhân mà vi phạm đạo đức nghề nghiệp cũng như quy chế của cơ quan. Chính sách cần hướng tới việc chống sự quy chụp về quan điểm, lập trường đối với người làm khoa học bởi đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự sáng tạo trong nghiên cứu. Làm như vậy, chúng ta sẽ phát huy được những tư tưởng mới, khơi dậy sự sáng tạo để phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

Đối với những ngành, nghề có tính đột phá và tính ứng dụng cao cần có chính sách khuyến khích để thu hút những sinh viên giỏi, nhất là những sinh viên giỏi nhưng có hoàn cảnh khó khăn. Có thể thấy rất rõ điều này qua chính sách miễn học phí cho những sinh viên theo học ngành sư phạm.

Đổi mới chính sách giáo dục phải gắn với một cơ chế quản lý năng động, mềm dẻo, coi trọng hiệu quả, mô hình đào tạo vừa phù hợp thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước, vừa có khả năng tiếp nhận tinh hoa giáo dục khu vực và thế giới. Điều này không chỉ đòi hỏi những người làm quản lý giáo dục dũng cảm thừa nhận khiếm khuyết, “khuyết tật”, những thiếu hụt của lối tư duy cũ gắn với cơ chế quản lý cũ, hành chính, bao cấp, “cầm tay chỉ việc” cho cơ sở, mà còn đòi hỏi họ nhận thức và đón nhận được “ngọn gió” đổi mới trí tuệ của thời đại, thời cuộc, xây dựng cung cách quản lý dựa trên những văn bản quy phạm pháp luật, trên những tiêu chí khoa học, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục, gắn với việc kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối.

Việc đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo cần hướng tới loại hình giáo dục thường xuyên để mọi người có khả năng tự học, tự đào tạo. Trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, việc giáo dục thường xuyên là rất cần thiết để có thể thích ứng được với những yêu cầu của cuộc sống. Bên cạnh đó, cần kiên quyết giảm bớt những hình thức đào tạo không mang lại chất lượng thực sự. Trong xã hội còn đang bị chi phối bởi tư tưởng “bằng cấp” như hiện nay thì đây là công việc rất khó khăn nhưng lại là vấn đề cần phải thực hiện. Chính sách mới phải thực sự khuyến khích được người có thực tài và có cơ chế đãi ngộ xứng đáng để họ tận tâm cống hiến.

Trong chính sách giáo dục và đào tạo cần chú trọng đến việc cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ cho cán bộ khoa học đương chức bởi đó chính là phương tiện giúp họ nâng cao hiệu suất làm việc. Trong thời đại thông tin, người trí thức cần phải được tiếp cận với những tri thức mới để đáp ứng yêu cầu mà cuộc sống đặt ra. Việc đào tạo có thể tiến hành cả trong và ngoài nước dưới nhiều nguồn kinh phí khác nhau. Từ khi có Chỉ thị 53-CT/TW tháng 03-1995 của Ban Bí thư, vấn đề này đã được chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Việc đào tạo ở nước ngoài do nguồn ngân sách nhà nước cần phải được quản lý chặt chẽ và hướng vào những ngành mà ta đang có nhu cầu cấp bách như công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử viễn thông,… Bên cạnh đó, cần mở rộng loại hình đào tạo tại chỗ như mời chuyên gia đầu ngành của các nước đến làm việc hoặc giảng dạy tại các cơ sở đào tạo trong nước. Đó chính là cơ sở cho việc hình thành đội ngũ trí thức có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cách làm này cũng phù hợp hơn việc thi đua nâng cấp các cơ sở đào tạo lên “đẳng cấp quốc tế” với những tên gọi rất “kêu” nhưng chất lượng đào tạo như thế nào thì vẫn còn là điều nghi vấn.

Một vấn đề rất quan trọng trong giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức là cần phải có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thực sự có trí tuệ để lãnh đạo, điều hành đất nước.

Đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo cần khắc phục sự mất cân đối về số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức giữa các vùng, miền trong cả nước. Chính sách hiện nay chưa thu hút được nhân tài đến với vùng sâu, vùng xa hoặc các tỉnh đang có nhiều khó khăn. Cần có kế hoạch điều chuyển một số trí thức có trình độ cao cho những nơi chưa có hoặc có ít cán bộ có trình độ nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương cũng như để họ ứng dụng những hiểu biết của mình vào thực tiễn. Muốn vậy, phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng để họ yên tâm công tác và cống hiến cho sự nghiệp chung. Thực tế đã chứng minh sau khi Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai công bố chính sách đón người giỏi từ các nơi về làm việc, các tỉnh, thành đồng loạt ban hành chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” thu hút người tài. Nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân tốt nghiệp loại khá, giỏi được các lãnh đạo của địa phương mở rộng vòng tay đón nhận, phân về các đơn vị. Phải có cách nhìn mới về vai trò của tiền lương, vị trí, điều kiện công tác như là động lực thúc đẩy chính sách giáo dục và đào tạo.

Một vấn đề khác cũng đáng lưu ý là cần quan tâm đến việc giáo dục lập trường, tư tưởng chính trị cho đội ngũ trí thức. Trí thức được đào tạo đầy đủ phải là người vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Họ cần nắm vững chủ nghĩa Mác –Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta trong công cuộc đổi mới, hiểu rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Chính sách trong lĩnh vực này phải bảo đảm tính khách quan, hướng về trí thức để hoạt động của họ phục vụ cho đường lối chính trị, cung cấp luận cứ khoa học cho sự phát triển của đất nước chứ không phải mang tính áp đặt. Đồng thời, nó cũng tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức phát huy khả năng của mình trong việc tham gia và xây dựng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bảo đảm tính Đảng trong nghiên cứu khoa học.

Trí thức là tài sản vô giá của quốc gia. Giáo dục và đào tạo trí thức phải được xây dựng trên nền tảng tư duy cách mạng và khoa học. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong thời gian qua nhưng vấn đề đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức vẫn là thách thức của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức, tin rằng đội ngũ trí thức nước nhà sẽ xứng đáng là lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam, góp phần đưa đất nước phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.

-------------------------------

(1) Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội, 2013, tr. 253; 

(2) Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội, 2013, tr. 181, 182; 

(3) Phạm Minh Hạc: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 235.