Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng
Phạm trù thời kỳ quá độ (TKQĐ) được C.Mác nêu ra trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” là: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(2). Trong tác phẩm này, C.Mác chỉ rõ TKQĐ có một số điểm đáng lưu ý sau: xã hội TKQĐ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc của xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN); TKQĐ là thời kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã hội TBCN sang xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN); Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước, đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; TKQĐ là thời kỳ “sinh đẻ lâu dài và đau đớn”(3).
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác, V.I.Lê-nin khẳng định, “danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”(4). Theo V.I. Lê-nin, “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”(5).
Từ sự phân tích trên, V.I. Lê-nin đã chỉ ra bốn đặc điểm cơ bản của TKQĐ là: Thứ nhất, đó là thời kỳ, xét về mọi mặt của đời sống xã hội, đều do nhiều thành phần không thuần nhất tạo nên. Đó là thời kỳ có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thứ hai, đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới, những trật tự mới. Thứ ba, đó là thời kỳ, xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của các tầng lớp tiểu tư sản. Theo V.I. Lê-nin, đây là một trong những đặc điểm nổi bật của giai đoạn quá độ. Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng đắn; tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm ấy có thể phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng (6).
Đồng thời, khi phân chia quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản (CNCS) thành 3 giai đoạn: giai đoạn “những cơn đau đẻ kéo dài”; giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN); và, giai đoạn cao của xã hội CSCN(7), V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa” chính là xã hội XHCN còn thời kỳ “những cơn đau đẻ kéo dài” chính là TKQĐ từ CNTB lên CNXH (Trong tác phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản được viết vào năm 1916, lần đầu tiên V.I. Lê-nin dùng khái niệm: thời kỳ quá độ từ xã hội tư sản sang xã hội xã hội chủ nghĩa). Như vậy, TKQĐ là một giai đoạn độc lập, có vị trí riêng biệt nằm giữa CNTB và CNXH. Điều này cũng có nghĩa TKQĐ chưa phải là CNXH và cũng không nằm ở giai đoạn đầu của CNCS. Xác định đúng và làm rõ vị trí của TKQĐ sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng bởi nó giúp ta xác định được đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ cũng như mục đích của thời kỳ này.
Độ dài của TKQĐ thường được quy định bởi xuất phát điểm với những tiền đề về kinh tế, văn hóa, xã hội khi bước vào TKQĐ của mỗi quốc gia cụ thể. V.I. Lê-nin cho rằng, cần phải có một TKQĐ khá lâu dài từ CNTB lên CNXH. Ông khẳng định: “… tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài)… tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”(8). Như vậy, theo V.I. Lê-nin, bản thân những nước có điểm xuất phát khi bước vào TKQĐ là từ CNTB đã cần phải có TKQĐ là khá lâu dài thì đối với những nước có điểm xuất phát thấp hơn CNTB - tiền TBCN, thì chắc chắn càng cần phải có một TKQĐ còn lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, về mặt khách quan một cách tự nhiên, một mặt, CNXH ra đời trên cơ sở của sự phát triển đến đỉnh cao của CNTB; mặt khác, CNXH cũng ra đời từ xuất phát điểm thấp hơn CNTB khi những tiền đề trên và thời cơ chín muồi. Đó chính là những khả năng, những con đường hiện thực ra đời một cách tất yếu của xã hội mới - xã hội XHCN.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN cũng có nghĩa là chưa có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên CNXH một cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua quá trình phát triển CNTB thì, muốn xây dựng thành công CNXH, nhất thiết phải thực hiện TKQĐ một cách lâu dài với những bước đi thích hợp và với một khối lượng công việc to lớn bao gồm trong đó không chỉ những nội dụng cơ bản của TKQĐ từ CNTB lên CNXH, mà hơn thế, còn phải đồng thời đạt được cả những thành tựu căn bản mà CNTB đã phải mất hàng trăm năm mới có được. Như vậy, đối với các nước như thế, chắc chắn TKQĐ không chỉ vô cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển rất lâu dài.
Trong di sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng về TKQĐ có rất nhiều nội dung phong phú và đa dạng, trong đó, cũng có những nội dung mà các ông đề xuất khi đó, đến nay không còn phù hợp, nhưng nhìn chung, về cơ bản, tư tưởng của các ông về TKQĐ cũng như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Có thể nêu một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, về xã hội. Trong TKQĐ, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen lẫn nhau giữa các nhân tố TBCN và XHCN, giữa cái mới và cái cũ, trong khi cái cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm mống, yếu ớt, phát triển chậm chạp.
Hai là, về chính trị. Đây là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn vấp phải sự phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản, vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt thì giai cấp công nhân có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông.
Ba là, về tâm lý - ý thức. Đó là tâm lý phục thù, khôi phục lại chính quyền cũ của giai cấp tư sản; tâm lý vô chính phủ, tập quán tản mạn, tự do, hoang mang, dao động của một số tầng lớp của xã hội cũ; lối sống thiếu văn hóa, không tuân thủ pháp luật, tệ tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản, tâm lý thỏa mãn, hưởng thụ, lười biếng của một bộ phận trong xã hội... Thực trạng này thường tạo nên một xã hội hỗn tạp và rối loạn về tâm lý và ý thức.
Bốn là, về kinh tế. Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt với nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và XHCN. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN, thiết lập quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần dần, có lộ trình với những bước đi thích hợp và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển.
Năm là, về chế độ chính trị. Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Đổi mới XHCN đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở nhằm phù hợp và đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của TKQĐ.
Sáu là, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Đối với việc xây dựng nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật mới XHCN trong TKQĐ cần phải trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tư cách là những thành tựu mà nhân loại đã sáng tạo và tích lũy được qua hàng nghìn năm, nhất là những thành tựu của thời kỳ phát triển TBCN(9).
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những thành tựu về lý luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở nước ta mấy chục năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, tại Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ đi lên CNXH ở nước ta “… là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(10). Như thế, TKQĐ ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra, những di hại của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp mà xã hội ta đã trải qua mấy chục năm qua, mà hơn thế, cái cũ ở đây còn là những yếu tố TBCN đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại là cũ so với những nhân tố XHCN mà chúng ta đang xây dựng. Đặc biệt cần hiểu, sự biến đổi về chất mà Đảng ta đề cập ở đây là sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, biến đổi của từng bộ phận, mang tính cục bộ. Điều này có nghĩa là trong TKQĐ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và, quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN, vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Có thể khẳng định, khi bước vào TKQĐ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển TBCN nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của CNXH, hệ thống CNXH thế giới tan rã và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời thoái trào. Bên cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối cảnh đó, Đảng ta vẫn khẳng định “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”(11).
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ, mục tiêu tổng quát khi kết thúc TKQĐ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Đây quả là những nhiệm vụ nặng nề bởi, trước hết, “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển để đến khi kết thúc TKQĐ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội XHCN; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, TKQĐ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa các yếu tố TBCN và XHCN. Nghĩa là, ở đó chúng ta vừa phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ, vừa phải xây dựng những “cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng quát khi kết thúc TKQĐ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, tại Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình xã hội XHCN Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể, vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đó là, “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(12). Đây là mô hình CNXH đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt TKQĐ. Mang tính định hướng là do, TKQĐ là một giai đoạn phát triển có tính độc lập và là giai đoạn chuyển đổi từ CNTB lên CNXH. Vì vậy, xã hội trong TKQĐ chưa phải là xã hội XHCN hoàn bị, nó đòi hỏi tiếp tục được bổ sung và phát triển.
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên CNXH, họ trực tiếp thực hiện bước quá độ từ CNTB, Việt Nam khi bước vào TKQĐ chưa trải qua sự phát triển của CNTB, dĩ nhiên, chúng ta có đủ cơ sở thực tiễn khách quan và chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công bước quá độ lên CNXH.
Những đặc trưng của mô hình xã hội XHCN Việt Nam vừa mang tính chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả TKQĐ. Điều này mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với thực tiễn mà cả lý luận. Về mặt thực tiễn, mô hình xã hội XHCN không phải là một hệ chuẩn cố định, cứng nhắc, bất biến mà là một hệ thống giá trị phổ quát, sinh động, luôn vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của thực tiễn lịch sử. Về mặt lý luận, nhận thức là một quá trình. Nhận thức về CNXH với tư cách là nhận thức về một thực thể đang hình thành, vận động và phát triển càng là một quá trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ. Do đó, nhận thức về mô hình xã hội XHCN càng phải tuân thủ các phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của Đảng ta về mô hình xã hội XHCN Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta qua mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng CNXH, nhất là 25 năm đổi mới. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mô hình tổng quát, trong TKQĐ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp với thực tiễn chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện./.
---------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(2) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 19, tr. 47
(3) GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS Phạm Văn Đức, PTS Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 155
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 36, tr. 362
(5) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 39, tr. 309 - 310
(6) GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS Phạm Văn Đức, PTS Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Sđd, tr. 162 - 163
(7) Xem: V.I. Lê-nin: Sđd, t.33, tr 223
(8) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 44, tr. 197
(9) GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS Phạm Văn Đức, PTS Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Sđd,
tr. 189 - 192
(10), (11) Văn kiện Đại hộii XI đã dẫn, tr.70, 71
(12) Văn kiện Đại hộii XI đã dẫn, tr.70
Kinh nghiệm quốc tế về tránh “bẫy thu nhập trung bình”  (23/12/2011)
“Nối vòng tay lớn-Vì người nghèo” diễn ra tối 31-12  (23/12/2011)
Việt Nam-Thái Lan tăng cường trao đổi kinh nghiệm  (23/12/2011)
Phát triển quan hệ Pháp-Việt Nam lên tầm cao mới  (23/12/2011)
Ngân hàng trung ương châu Âu cho vay lượng tiền kỷ lục  (23/12/2011)
Thủ tướng: Năm 2012, duy trì tăng trưởng ở mức 6%  (23/12/2011)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên