TCCSĐT - Theo Báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới” của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đánh giá của Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, những cảnh báo của Hội nghị Bộ trưởng Tài chính các nước G20 và nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ rơi vào vòng xoáy khủng hoảng mới, còn trầm trọng hơn so với thời điểm năm 2008.

Cảnh báo đáng lo ngại

Báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới” của IMF vừa được công bố ngày 22-9-2011 đã hạ mức dự báo tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2011 và 2012 xuống còn 4%, thấp hơn 0,5% so với mức dự báo do chính tổ chức này đưa ra hồi tháng 6-2011 và thấp hơn nhiều so với mức 5,1% của năm 2010. Theo IMF, nguyên nhân dẫn tới quyết định hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu là do các hoạt động kinh tế đã suy giảm đáng kể so với lần dự báo trước, cộng với những diễn biến phức tạp liên quan tới vấn đề nợ công tại châu Âu. Từ đó, IMF hối thúc các nhà lãnh đạo khu vực châu Âu thực hiện tất cả các biện pháp nhằm khôi phục lòng tin vào chính sách trong nước và vào đồng ơ-rô. IMF còn khuyến nghị Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) nên hạ lãi suất nếu không hóa giải được nguy cơ về tăng trưởng chậm lại và lạm phát tăng cao.

Nhận xét về động thái này, chuyên gia kinh tế trưởng của IMF, ông Ô-li-vơ Blan-chác (Oliver Blanchard) cho biết, trong thời điểm hiện nay, các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là tại khu vực châu Âu, đang phản ứng khá chậm chạp trong khi lẽ ra họ cần có những bước đi cần thiết để trấn an thị trường. Còn Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB), ông Rô-bớt Dô-ê-lích (Robert Zoellick), trong bài phát biểu tại cuộc họp mới đây ở Oa-sinh-tơn (Mỹ) đã cảnh báo các nhà hoạch định chính sách tại châu Âu, Mỹ và Nhật cần hành động ngay trước khi những vấn đề tài chính của họ ảnh hưởng xấu tới toàn thế giới. Ông R.Dô-ê-lích nhận định: “Thế giới đang sắp rơi vào một vòng xoáy nguy hiểm mới. Nếu trong vòng xoáy khủng hoảng năm 2008 rất nhiều quốc gia đã không bị “chết chìm”, thì lần này, khả năng đó sẽ không còn nữa. Chính phủ các nước phát triển cần kêu gọi sự hợp tác và hỗ trợ từ cả bên ngoài và không nên coi những rắc rối về tài chính chỉ là vấn đề của riêng họ”. Trong khi đó, ông Gioóc-giơ Xô-rớt (George Soros), nhà tỉ phú và là nhà tài chính hàng đầu ở Mỹ cảnh báo, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể gây ra những hậu quả nặng nề hơn so với sự sụp đổ của ngân hàng “Lehman Brothers” của Mỹ hồi tháng 9-2008.

“Tạp chí phố Uôn” (The Wall Street Journal) của Mỹ mới đây cũng công bố ba kịch bản phát triển kinh tế thế giới là: tăng trưởng chậm, suy thoái kép và đợt tăng trưởng mới. Trong đó, kịch bản suy thoái kép có nhiều khả năng xảy ra nhất bởi động lực cho sự tăng trưởng hiện nay quá yếu so với mức cần thiết. Theo các chuyên gia kinh tế thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế của Viện Toàn cầu hóa và các phong trào xã hội, kinh tế thế giới sắp chứng kiến hàng loạt vụ phá sản mới và một vòng xoáy suy thoái mới vào năm 2012.

Hội nghị Bộ trưởng Tài chính các nước G20 sau khi tiến hành phân tích tình hình kinh tế các nước Mỹ, Trung Quốc, Đức, Pháp, Nhật Bản đã đi tới kết luận rằng, kinh tế thế giới tuy có phục hồi nhưng vẫn đứng trước nguy cơ cao của một cuộc khủng hoảng mới.

Cục Dự trữ liên bang Mỹ ra tay

Trong bối cảnh “nước sôi, lửa bỏng” đó, sau cuộc họp kéo dài tới 48 giờ, ngày 21-9-2011, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã công bố một chương trình mua trái phiếu với nỗ lực giảm lãi suất dài hạn, kích thích nền kinh tế Mỹ tăng trưởng. Theo chương trình này, FED sẽ bán 400 tỉ USD trái phiếu ngắn hạn (đáo hạn trong vòng 3 năm trở lại) để mua 400 tỉ USD trái phiếu dài hạn bắt đầu từ tháng 10-2011 và kết thúc vào tháng 6-2012. Đồng thời, FED cũng cam kết tái đầu tư tiền thu được từ chứng khoán thế chấp vào nợ do các tổ chức cho vay như “Fannie Mae” và “Freddie Mac” phát hành, với trọng tâm mua trái phiếu Bộ Tài chính trong thời hạn 30 năm.

Như vậy, khác với những gói kích thích khổng lồ trước đây, lần này, FED chỉ thực hiện sự can thiệp nhằm làm giảm lãi suất trên thị trường trái phiếu. Hiện nay, Mỹ đã trở thành con nợ lớn nhất thế giới và cũng là nước duy nhất trên thế giới có nợ nước ngoài bằng chính đồng tiền của mình. Theo nhận định của FED, triển vọng nền kinh tế Mỹ khá ảm đạm.

Châu Âu chưa thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ công

Trong những ngày qua, cộng đồng quốc tế vẫn hết sức lo ngại về tình hình kinh tế châu Âu. Nhiều chuyên gia phân tích cảnh báo cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán châu Âu có thể gây ra vấn đề tài chính trên phạm vi toàn cầu, đồng thời kêu gọi cứu vãn khu vực ơ-rô.

Ngày 16-9-2011, trong cuộc họp tại thành phố Vrô-xláp (Wroclaw) của Ba Lan, bộ trưởng tài chính các nước châu Âu tập trung thảo luận các biện pháp cải cách khu vực đồng tiền chung châu Âu và kế hoạch hỗ trợ cho Hy Lạp. Tham gia cuộc họp này, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Ti-mô-thi Ghết-nơ (Timothy Geithner) mang theo bản thông điệp của Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma bày tỏ sự lo ngại về việc khu vực đồng ơ-rô mất ổn định sẽ đe dọa nền kinh tế thế giới. Ông Ti-mô-thi Ghết-nơ cố gắng thuyết phục những người đồng nhiệm châu Âu làm theo “tấm gương của Mỹ” để khắc phục khủng hoảng và tập trung nỗ lực tối đa nhằm củng cố nền kinh tế châu Âu.

Tuy nhiên, cho đến nay, các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong việc xử lý cuộc khủng hoảng nợ công mà họ đang phải đối mặt. Đại diện đến từ nước Áo đưa ra quan điểm rằng, lối thoát duy nhất là để cho Hy Lạp bị vỡ nợ. Trong khi đó, đại diện của Pháp lại bày tỏ sẵn sàng “hy sinh” để cứu Hy lạp. Ông Phran-xoa Ba-rôn (Francois Baroin), Bộ trưởng Bộ kinh tế, tài chính và công nghiệp Pháp tuyên bố: “Khu vực ngân hàng Pháp sẵn sàng tham gia đổi chứng khoán sắp hết hạn của Hy Lạp lấy trái phiếu có giá trị cao hơn”.

Đối với việc phát hành loại trái phiếu chung của khu vực đồng ơ-rô (Eurobond), mặc dù tại Nghị viện châu Âu, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Giô-sê Ma-nu-en Ba-rô-xô (Jose Manuel Barroso) đã tuyên bố, thời gian tới sẽ phát hành loại trái phiếu này nhằm bảo đảm sự ổn định lâu dài, nhưng Đức - nền kinh tế lớn nhất châu Âu, lại chống lại việc đó. Ông Phi-líp Rô-xlơ (Philipp Roesler), Bộ trưởng Kinh tế Đức tuyên bố: “Tôi xin nhấn mạnh rằng, theo nghị quyết của Tòa án tối cao của Đức, nhà nước không được nhận cam kết vô hạn nếu không có sự tán thành của Quốc hội Đức. Điều đó có nghĩa là Đức loại trừ khả năng phát hành trái phiếu châu Âu”. Béc-lin cũng nhấn mạnh quan điểm yêu cầu các quốc gia thành viên EU như Hy Lạp, Ai-len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và I-ta-li-a cần thực hiện cải cách cơ cấu.

Về số phận của đồng tiền chung ơ-rô, Bộ trưởng Tài chính Ba Lan, ông Gia-chếch Rô-xtâu-xki (Jacek Rostowski), dự báo: “Nếu như không muốn đồng ơ-rô tồn tại nữa, chúng ta cần phải chuẩn bị sự rút lui có trật tự của một khu vực tiền tệ”. Các nhà phân tích kinh tế Xte-phan Đi-ô (Stephane Deo), Pôn Đô-nô-van (Paul Donovan) và La-ri Ha-thơ-uây (Larry Hatheway), đại diện Ngân hàng UBS (Thụy Sĩ) nhận định: “Theo cấu trúc hiện nay và với các thành viên hiện tại, đồng ơ-rô hoạt động không hiệu quả. Do đó, hoặc cấu trúc hiện tại phải thay đổi, hoặc các thành viên EU sẽ phải thay đổi”. Ngay cả ông Héc-man Van Rôm-puy (Herman Van Rompuy), Chủ tịch EU, cũng phải thốt lên: “Đồng ơ-rô chưa bao giờ có được hạ tầng mà nó đòi hỏi”. Chuyên gia phân tích chiến lược ở Luân Đôn A-lát-xte Niu-tơn  (Alastair Newton) nói: “Chúng tôi tin rằng chúng ta mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của một thời kỳ quan trọng của khu vực đồng tiền chung và chúng tôi cũng tin rằng, nguy cơ của một sự sụp đổ từ nay đến hết năm 2011 là lớn hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng”. Nhà tỉ phú Mỹ Gioóc-giơ Xô-rớt thì nhận định: “Chúng ta đang trên bờ vực của sự sụp đổ kinh tế, bắt đầu từ Hy Lạp. Hệ thống tài chính hiện tại rất dễ bị tổn thương”. Một số nhà kinh tế và nhà bình luận, chủ yếu là người Anh và Mỹ cũng cho rằng, đồng tiền chung của 16 nước châu Âu ra đời năm 1999 có thể tan vỡ do mức độ nợ công và thâm hụt ngân sách cao của các nước thành viên cũng như việc thiếu hụt khả năng cạnh tranh với Đức.

Đâu là nguyên nhân?

Tình trạng ảm đạm ở một số nơi được coi là trung tâm kinh tế lớn của thế giới bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản sau.

Một là, các gói kích thích kinh tế từ năm 2008 như một “liều thuốc an thần” cho nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới thì nay đang giảm dần tác dụng, thậm chí nguy hiểm, vì nó chỉ có tác dụng ổn định tạm thời các hoạt động trong khu vực “kinh tế ảo” (tài chính, ngân hàng), còn nền “kinh tế thực” lại khởi sắc quá chậm chạp. Chỉ tính trong năm 2008 đến năm 2010, thế giới đã bỏ ra gần 15 nghìn tỉ USD để giải cứu sự khó khăn trong khu vực “kinh tế ảo” nhưng cũng chỉ cứu được sự sụp đổ của lĩnh vực tài chính tư nhân, mà không giải quyết được các khó khăn chung của cả nền kinh tế.

Hai là, nếu như trong vòng xoáy khủng hoảng năm 2008, nhà nước ra tay cứu giúp các ngân hàng và các tổ chức tài chính tư nhân khác, thì hiện nay, chính các nhà nước lại đang sa vào vòng xoáy nợ công và phải tự cứu mình, trong khi tiềm năng đang bị suy kiệt.

Ba là, các nền kinh tế trên thế giới đang đứng trước yêu cầu tái cơ cấu và đổi mới mô hình phát triển. Đây là yêu cầu đòi hỏi thời gian, không thể thực hiện ngay trong một sớm, một chiều.

Bốn là, các thể chế tài chính toàn cầu cần được cải tổ lại, nhưng dường như thế giới chưa sẵn sàng cho điều đó, hoặc nếu có thực hiện thì cũng tiến triển quá chậm. 

Năm là, cho tới nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất về nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu vừa qua.

Có ý kiến cho rằng, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu hiện nay xuất phát từ mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời đại toàn cầu hóa sâu sắc. Do đó, các biện pháp giải cứu vừa qua chỉ mang tính tình thế, chưa phải là giải pháp căn bản và triệt để. Và như vậy, thế giới vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng mới./.