Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đối với một nước kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 72,% dân số sống ở nông thôn, gần 70% lao động làm nông nghiệp, 20% GDP do nông nghiệp tạo ra và trên 30% kim ngạch xuất khẩu có nguồn gốc từ nông nghiệp (nghĩa rộng) thì tác động của WTO vào khu vực này càng rõ nét. Đến nay, sau 1 năm vào WTO, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển theo xu hướng tích cực, nhưng khó khăn, hạn chế vẫn còn nhiều.

Sau 1 năm vào WTO, nông nghiệp Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản theo hướng tăng chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm và xóa dần sự bảo hộ của Nhà nước được thực hiện trên phạm vi toàn ngành từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã đứng vững trên thị trường cũ và thâm nhập các thị trường mới. Tính chung 1 năm sau khi vào WTO, kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam đạt 9.196 triệu USD, tăng 27,7% so với năm 2005. Tính riêng 10 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đã đạt 8.165 triệu USD, tăng 1.371 triệu USD so với cùng kỳ năm 2006. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng với tốc độ cao, trong đó: hạt tiêu vẫn giữ nhất thế giới với kim ngạch 224 triệu USD, tăng 28,1%, gạo đứng thứ 2 với 4.255 nghìn tấn, đạt 1.368 triệu USD, tăng 12,7%, cà phê đứng thứ 2 với 1.023 nghìn tấn, tăng 42,6%, đạt 1.554 triệu USD, tăng 84%; một số sản phẩm khác: thuỷ sản đạt 3.069 triệu USD, tăng 10,8%, hạt điều tăng 25,4%, chè tăng 11,5%, rau quả tăng 15% so với cùng kỳ năm 2006. Nét nổi bật trong 1 năm qua sản phẩm xuất khẩu không phải chỉ tăng số lượng mà còn tăng chất lượng và độ an toàn thực phẩm. Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam không chỉ tăng ở các thị trường truyền thống đã có mà bước đầu có chỗ đứng ở các thị trường mới như Nam Mỹ, châu Phi, Nam Á. Mặt hàng gạo, thuỷ sản, chè là thí dụ rõ nét. Giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2007 đạt 321,5 USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2006. Lượng gạo Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản 10 tháng qua tăng hơn 2 lần so cùng kỳ năm 2006.

Chưa bao giờ bức tranh thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam lại sán lạn như năm nay. Số lượng doanh nghiệp thuỷ sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU, Mỹ và Nhật Bản năm qua tăng gấp 2 lần so với trước đây. Theo cơ quan quản lý chất lượng thuỷ sản Nhật Bản, qua kiểm tra các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật những tháng gần đây cho thấy: Tất cả các lô hàng đều đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường này tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản 1 năm sau khi Việt Nam vào WTO đạt 3669 triệu USD, tăng hơn 300 triệu USD so cả năm 2006, trong đó 2 tháng cuối năm 2006 đạt 600 triệu USD, và 10 tháng đầu năm 2007 đã tăng lên 3, 069 tỉ USD.

Khi vào WTO, thị trường Việt Nam rộng mở, thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thuỷ sản đã giảm dần theo lộ trình, sự bảo hộ của Nhà nước cho nông nghiệp cũng hạn chế theo cam kết WTO. Là thành viên WTO nên Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường nông sản như các thành viên khác. Hàng nông sản các nước với chất lượng và độ sạch cao hơn, giá cả cạnh tranh... cũng đã thâm nhập vào các siêu thị Việt Nam.. Đó là thịt bò Mỹ, Ốt-xtrây-lia-a, quả tươi Trung Quốc, gạo Thái Lan, lúa mỳ, sữa và các sản phẩm sữa châu Âu... Tuy số lượng hàng nông sản ngoại nhập chưa nhiều, nhưng cũng tăng khá: 10 tháng đầu năm 2007 giá trị nhập khẩu lúa mỳ tăng 44%, sữa và sản phẩm sữa tăng 19,5%, dầu mỡ thực vật tăng 68,2%, thức ăn gia súc tăng 51,5% so cùng kỳ 2006. Do có nông sản ngoại nhập nên sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên “sân nhà”.

Nhận thức được thách thức đó, tư duy của một bộ phận hộ nông dân, trang trại đã có bước chuyển biến bước đầu theo lộ trình gia nhập WTO. Tư duy sản xuất nông nghiệp sạch, chất lượng cao, chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường đã bước đầu thay thế tư duy năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi giá của các năm trước. Bằng chứng là vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chủ trương giảm, thậm chí bỏ lúa vụ 3, chất lượng thấp để chuyển sang vụ lúa đông xuân chất lượng cao hơn phù hợp với nhu cầu thị trường. Vùng cà phê Tây Nguyên cũng chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến và thị trường xuất khẩu. Phong trào nuôi thuỷ sản thâm canh và bán thâm canh, đảm bảo sản phẩm không có dư lượng kháng sinh được rộng mở ở các vùng để đáp ứng thị trường xuất khẩu. Các vùng sản xuất tập trung sản phẩm sạch như: chè Thái Nguyên, Suối Giàng, trái cây, rau trồng theo kỹ thuật công nghệ cao, chăn nuôi lợn thịt hướng nạc... bước đầu có bước chuyển biến tích cực nên sản phẩm xuất khẩu năm qua đã tăng khá nhanh so với khi chưa vào WTO. Nhờ đó, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu tăng chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả thấp hơn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Các vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn, chuyên canh và thâm canh cao như lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; cây cà phê và cao su ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, cây chè ở miền núi phía Bắc, thuỷ sản ở Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã có bước chuyển đổi quy trình sản xuất theo hướng không chạy theo năng suất, số lượng mà quan tâm hơn đến chất lượng, độ sạch và chi phí sản xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chính các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó đã cung cấp nông sản hàng hoá và xuất khẩu cho cả nước và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hoá lớn đã và đang hình thành.

Sau một năm vào WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập trung hơn cho các khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO. Đó là chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn. Theo cam kết WTO, mức và đối tượng đầu tư cho nông nghiệp được điều chỉnh tập trung vào những lĩnh vực mà WTO khuyến khích như mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, đào tạo nghề cho nông dân, công nghệ sau thu hoạch..

Nông nghiệp Việt Nam đã mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại, đáp ứng tương đối đầy đủ các yêu cầu của thị trường. Mặc dù từ tháng 11 năm 2006 đến nay, thiên tai, bão lũ lớn xảy ra liên tiếp trên phạm vi cả nước, sâu bệnh, dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng gia súc, lợn tai xanh... tàn phá nặng nề, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản; giá cả phân bón vật tư nông nghiệp tăng cao, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, tốc độ tăng trưởng khá cao. Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng khu vực này năm 2007 vẫn đạt 4,3%, trong đó nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng 9,8%, cao hơn năm 2006. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước 1 năm qua vẫn đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống. Nông sản hàng hoá vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như mía đường, rau quả, lúa gạo, chè. Các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết với khách hàng được thực hiện từ đầu năm theo đúng cam kết WTO. Chính phủ đã thực hiện xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản theo đúng cam kết WTO và mở cửa thị trường, giảm thuế suất đối với các mặt hàng nông sản nhập khẩu theo đúng lộ trình. Tình trạng trợ cấp mua lúa, cà phê, tạm trữ xuất khẩu như các năm trước đã không còn. Năm 2007, thị trường và giá cả nông sản thuỷ sản trong nước tuy có tăng cao hơn năm 2006 nhưng về cơ bản vẫn ổn định, không có cơn sốt lớn về thiếu lương thực thực phẩm như các năm trước. Lượng gạo hỗ trợ đồng bào vùng bị thiên tai tăng cao nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu cơ bản của đời sống dân cư, không để dân đói. Lượng gạo xuất khẩu năm 2007 vẫn đạt kế hoạch 4,5 triệu tấn theo hợp đồng đã ký kết từ đầu năm; và còn hỗ trợ một số nước thiếu lương thực.

Khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường. Tỷ lệ đất nông nghiệp được tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Phi-lip-pin.

Cùng với những mặt ưu điểm, nông nghiệp Việt Nam còn những mặt hạn chế tập trung vào mấy điểm sau:

Một là, sau 1 năm vào WTO, vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Tính chung 10 tháng đầu năm 2007, cả nước mới thu hút được 1,66 tỉ USD đầu tư vào khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm 1,47% tổng vốn FDI,tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy tác động của WTO vào thu hút vốn FDI ở khu vực này chưa có gì khởi sắc. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có công nghệ hiện đại vẫn chưa được các nhà đầu tư quan tâm.

Hai là, nhiều lợi thế chưa được khai thác hợp lý. Lợi thế của nông nghiệp Việt Nam là chi phí lao động thấp so với các nước khác trong khu vực. Lợi thế này nếu được phát huy sẽ là yếu tố giảm giá thành nông sản, tăng sức cạnh tranh trên thị trường sau khi gia nhập WTO. Bên cạnh chi phí vật chất, chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao đông nông nghiệp nói chung thấp. Tiềm năng đất đai cũng là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam nhưng chưa được khai thác hợp lý. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình nông dân cá thể, phổ biến là tự cung tự cấp, rất khó khăn cho cơ giới hoá và thuỷ lợi hoá nên tỷ suất hàng hoá còn thấp.

Ba là, sản xuất nông nghiệp chưa gắn chặt với chế biến và thị trường tiêu thụ. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng nông nghiệp chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng đất đai, nguồn nước, lao động. Sản xuất lúa là ngành chủ lực của nông nghiệp cả nước nhưng sau 1 năm gia nhập WTO vẫn phát triển không đồng đều. Trong khi năng suất, sản lượng và chất lượng lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng tăng khá nhanh thì 6 vùng còn lại đều tăng chậm và giảm trong năm 2007. Cơ cấu giống lúa vẫn còn mang nặng tính truyền thống, chậm chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá. Chất lượng lúa gạo tuy có tiến bộ song về cơ bản vẫn còn khoảng cách xa với yêu cầu thị trường. Số lượng và tỷ lệ diện tích gieo cấy các giống lúa gạo chất lượng cao, gạo thơm còn quá ít. Ngay cả gạo thơm Việt Nam sản xuất cũng có nhược điểm là giữ mùi không lâu. Lúa hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng lớn lại thu hoạch vào mùa mưa, nhưng tỷ lệ được phơi sấy năm mới chỉ đạt 31% do đó chất lượng không cao. Tỷ lệ thất thoát trong và sau thu hoạch còn lớn 10-13%. Tình hình sản xuất các nông sản khác cũng tương tự.

Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập trong sản xuất nông nghiệp sau 1 năm Việt Nam gia nhập WTO là:

- Quy hoạch sản xuất không xuất phát từ điều tra thị trường nên chưa có vùng chuyên canh, thâm canh phù hợp với yêu cầu sản xuất nông sản hàng hoá lớn. Việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn nặng tính tự phát và chưa có sự ràng buộc giữa người sản xuất với người tiêu thụ.

- Sản xuất quá manh mún, quy mô quá nhỏ theo hộ gia đình nên rất khó khăn cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản.

- Sự bất cập giữa sản xuất tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng không tăng, không gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Để nông nghiệp Việt Nam đứng vững trong cơ chế thị trường khi vào WTO cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu là:

1- Hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp theo hướng đất nào cây ấy, lấy giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích làm mục tiêu. Quy hoạch sử dụng đất gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng vùng và từng địa phương, vùng sản xuất hàng hoá với hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi, quy mô lớn, chất lượng cao. Trên cơ sở đó, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên vùng đất phù hợp với phương châm ổn định, lâu dài và hiệu quả cao, khắc phục tình trạng tự phát, manh mún, tự cung tự cấp. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất trên phạm vi cả nước theo hướng tập trung đầu tư các vùng trọng điểm có thế mạnh về sản xuất hàng hoá chất lượng cao.

2- Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Theo hướng đó, từ nay đến năm 2010 cần ổn định diện tích canh tác lúa ở mức 4 triệu ha, gieo trồng 2 vụ/năm, bỏ lúa vụ 3 ở đồng bằng sông Cửu Long. Mở rộng diện tích vụ đông ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Bắc lên 800 nghìn ha, ổn định dịên tích các cây trồng khác như cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi tập trung quy mô trang trại là chủ yếu. Giải pháp kỹ thuật là đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi thuỷ sản, trồng rừng để tăng năng suất đi đôi với tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí trung gian, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Phát triển và nâng cấp các công trình thuỷ lợi tưới tiêu chủ động để nâng cao khả năng phòng chống bão, lũ, hạn hán có hiệu quả.

3- Tập trung cao độ nguồn lực của Nhà nước và nhân dân để phát triển mạnh sản xuất hàng hoá chất lượng cao ở hai vùng trọng điểm lúa là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu nông sản. Phát triển mạnh sản xuất ngô theo hướng chuyên canh và thâm canh cao gắn với công nghiệp chế biến thức ăn gia súc để hạn chế nhập khẩu. Tạo thêm nhiều việc làm mới ở nông thôn để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp nhằm tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân một cách cơ bản, lâu dài, thay cho trồng lúa.

4- Đổi mới phương thức tiêu dùng lương thực trong dân cư theo hướng tăng tỷ lệ thực phẩm, rau quả đồng thời tăng tỷ lệ mỳ, giảm tỷ lệ gạo trong cơ cấu bữa ăn. Để thực hiện giải pháp này, một mặt phải đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, xoá độc canh cây lúa, tạo ra nhiều nông sản thực phẩm, tăng thu nhập của hộ nông dân. Mặt khác, Nhà nước cần nâng cao dân trí cho dân cư thành thị, nông thôn bằng các hình thức và giải pháp thích hợp.

5- Hình thành tập đoàn xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hạt điều, hạt tiêu, thịt lợn và thịt gia cầm. Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản theo hướng lâu dài, bền vững bằng tăng sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả. Tăng cường hợp tác với các nước xuất khẩu nông sản lớn, nhất là Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc trong các hoạt động liên quan đến điều tiết thị trường nông sản thế giới với lộ trình hội nhập kinh tế theo cam kết WTO.

6- Hiện đại hoá công nghệ sau thu hoạch như phơi sấy, bảo quản, vận chuyển, chế biến nông lâm thuỷ sản theo hướng đồng bộ. Tổ chức lại mạng lưới thu gom nông sản hàng hoá theo chương trình liên kết “4 nhà, trong đó chủ yếu là nhà nông và doanh nghiệp với sự tham gia của nhà khoa học. Nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là điện, đường giao thông ở các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn, chất lượng cao với nguồn vốn của Nhà nước và nguồn lực của các thành phần kinh tế, hộ nông dân phù hợp với lộ trình gia nhập WTO và điều kiện Việt Nam. Thu hút mạnh các dự án FDI vào sản xuất và chế biến nông - lâm - thuỷ sản bằng các cơ chế, chính sách hấp dẫn./.