Huy động nguồn lực của xã hội cho phát triển khoa học - công nghệ

Nguyễn Việt Quân Đại học Quốc gia Hà Nội
22:43, ngày 29-03-2017

TCCSĐT - Đại hội XII của Đảng (tháng 01-2016) nhận định: Khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng (1). Từ đó, Đại hội đề ra phương hướng: Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu trên cơ sở tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở trong và ngoài nước nhằm huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội, nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.

Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu

Đây là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Theo đánh giá của Đại hội XII của Đảng, trong thời kỳ đổi mới, các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đều đã có bước phát triển quan trọng, góp phần nâng cao trình độ và năng lực phát triển của đất nước. Tiềm lực khoa học - công nghệ được nâng lên một bước đáng kể; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Tuy vậy, hoạt động khoa học - công nghệ nhìn chung còn trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.

Để góp phần đạt được mục tiêu đưa Việt Nam về cơ bản sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, đặc biệt các công nghệ mới theo xu hướng của cuộc cách mạng số, cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, đáp ứng yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; phấn đấu đưa Việt Nam thuộc nhóm nước dẫn đầu ASEAN trong một số lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, tạo phương thức phát triển mới, nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia

Trên cơ sở xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), ưu tiên tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học - công nghệ. Trong đó, tập trung đầu tư trước một bước phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Phấn đấu gắn kết công tác quy hoạch, phát triển khoa học - công nghệ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; với hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ theo định hướng chiến lược đã đề ra. Thông qua đó, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất, kinh doanh nhằm chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Để phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, tạo phương thức phát triển mới, nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia, toàn xã hội cần phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ cao, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công, xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và vì người dân. Trên cơ sở đó, thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo khoa học - công nghệ trong mọi ngành, lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; đầu tư nâng cao năng lực tiếp thu và làm chủ công nghệ, nhất là các công nghệ mới theo xu hướng của cuộc cách mạng số, cách mạng công nghiệp lần thứ 4; phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam thành trung tâm công nghiệp phần mềm, ứng dụng di động và trung tâm dịch vụ an toàn bảo mật thông tin của thế giới.

Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin, tăng nhanh về số lượng và chất lượng đạt chuẩn quốc tế, bắt kịp với các xu hướng công nghệ. Việt Nam phấn đấu trở thành một trong những trung tâm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế số thế giới. Thúc đẩy khởi nghiệp dựa trên đổi mới sáng tạo, đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp là con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ cao, tạo những nhân tố phát triển đột phá trong nền kinh tế số. Từng bước xóa bỏ các rào cản, khuyến khích ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân trở thành một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế.

Từng bước xây dựng và phát triển các thành phố thông minh, đi đầu là các đô thị lớn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương; giải quyết những bức xúc xã hội về giao thông, y tế, an toàn thực phẩm, an ninh trật tự, đem lại môi trường sống văn minh, hiện đại, nâng cao chất cuộc sống cho người dân.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học - công nghệ

Đại hội XII của Đảng coi việc đổi mới tổ chức hoạt động và quản lý khoa học - công nghệ là một nhiệm vụ chính và là một chính sách cơ bản về phát triển khoa học - công nghệ trong những năm tới. Chủ trương này thể hiện vai trò quan trọng của cơ chế quản lý và sự quyết tâm tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ, nhằm giải phóng năng lực sáng tạo trong hoạt động khoa học - công nghệ ở nước ta. Theo đó, nhiệm vụ đặt ra là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cụ thể là, quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học - công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học - công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.

Tiếp tục xây dựng, thực hiện cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại, nhằm huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học -công nghệ; thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học -công nghệ công lập; tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học - công nghệ với doanh nghiệp.

Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học - công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.

Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học - công nghệ.

Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia

Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới. Phấn đấu hoàn thành có trọng tâm, trọng điểm, mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; gắn với tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học - công nghệ và phát triển thị trường khoa học - công nghệ liên thông trong nước và quốc tế.

Phát triển các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của những người hoạt động khoa học, kỹ thuật, nhằm đẩy mạnh tập hợp những người làm công tác khoa học, kỹ thuật chuyên nghiệp và nghiệp dư ở trên cả nước, tự nguyện phấn đấu để có nhiều sản phẩm (công trình) khoa học kỹ thuật, góp phần xây dựng nền khoa học, kỹ thuật Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng con người Việt Nam có trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống và nhân cách tốt đẹp. Thông qua đó, tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ ở trong nước, trí thức khoa học - công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong hoạt động Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

Trong đó, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cần chú ý làm tốt nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, hội thành viên, của trí thức khoa học - công nghệ Việt Nam; chú ý phát hiện tài năng trẻ, các hội viên là người dân tộc ít người, đoàn kết thành một đội ngũ vững vàng giàu lòng yêu nước, có ý chí mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sáng tạo được nhiều tác phẩm, công trình khoa học, kỹ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc, sinh động, chân thực cuộc sống xã hội, trước hết là phản ánh hiện thực ở địa phương, cơ sở chuyên ngành; đáp ứng các nhiệm vụ chính trị của đất nước; góp phần làm phong phú nền khoa học kỹ thuật Việt Nam, góp phần ổn định tình hình đất nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; góp phần bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn con người Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hiện đại.

Trong thời gian tới, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

- Tham gia thực hiện xã hội hóa hoạt động khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, giảm nghèo bền vững; phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ trong nhân dân; tổ chức và hướng dẫn phong trào nhân dân tiến quân vào sáng tạo khoa học - công nghệ.

- Góp phần khai thác, bảo tồn, phát triển tinh hoa truyền thống khoa học, kỹ thuật của đất nước; phổ biến các tác phẩm, công trình khoa học, kỹ thuật của đất nước; giới thiệu có chọn lọc những tác phẩm, công trình khoa học, kỹ thuật tiêu biểu trong nước và tinh hoa khoa học, kỹ thuật thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức, sáng tạo khoa học, kỹ thuật ngày càng cao của nhân dân.

- Tổ chức hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chương trình, kế hoạch, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo, bảo vệ môi trường, xây dựng pháp luật, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối với các đề tài, công trình quan trọng.

- Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, đời sống và bảo vệ môi trường.

- Tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp, góp phần cải thiện đời sống tinh thần, vật chất của những người làm công tác khoa học - công nghệ; góp phần xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

- Thực hiện công tác vận động trí thức khoa học - công nghệ trong việc phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp bằng việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về khoa học - công nghệ; coi trọng công tác vận động trí thức khoa học - công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

----------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.119 - 120