TCCS - Trong lộ trình phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội, một trong những vấn đề nổi bật nhất là tình trạng già hóa dân số. Năm 2023, dân số cao tuổi của Việt Nam đã vượt quá 16 triệu người, dự báo đến năm 2038, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên đạt khoảng hơn 21 triệu người, chiếm 20% tổng dân số.
Thực trạng và những thách thức
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng cuộc sống được cải thiện, hệ thống y tế tốt hơn với nhiều công nghệ hiện đại đã góp phần kéo dài tuổi thọ của con người. Tỷ lệ sinh có xu hướng giảm trên thế giới đã làm cho số người cao tuổi ngày càng cao, dẫn đến hiện tượng già hóa dân số. Vấn đề già hóa dân số gây nhiều ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế trong dài hạn, làm giảm lực lượng và năng suất lao động, đòi hỏi đầu tư, chi tiêu xã hội nhiều hơn cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe, kết cấu hạ tầng và những vấn đề về xã hội cho người cao tuổi.
Dân số Việt Nam đã vượt 100 triệu người, đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 15 trên thế giới và là quốc gia thứ ba ở Đông Nam Á có dân số trên 100 triệu người. Cột mốc này tạo ra nhiều cơ hội song cũng đặt ra không ít thách thức, trong đó có vấn đề đáng lo ngại là tình trạng già hóa dân số đang gia tăng nhanh chóng.
Từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu quá trình già hóa dân số và là một trong số các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Theo cơ sở dữ liệu dân cư do Bộ Công an cung cấp, đến ngày 9-2-2023, cả nước có 16.179.824 công dân từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần 17% số dân, trong đó từ 60 đến dưới 70 tuổi là 9.417.924 người, từ 70 đến dưới 80 tuổi là 4.189.640 người, từ 80 đến dưới 90 tuổi là 1.907.991 người, từ 90 đến dưới 100 tuổi là 623.221 người, từ 100 tuổi trở lên là 41.048 người.
Giai đoạn 2009 - 2019, dân số tăng bình quân 1,14%/năm, trong khi dân số cao tuổi tăng bình quân 4,35%/năm, bình quân tăng 400.000 người cao tuổi/năm, nhưng các năm 2019 - 2021, bình quân tăng 600.000 người cao tuổi/năm. Chỉ số già hóa (số người cao tuổi trên 100 trẻ em dưới 15 tuổi) tăng nhanh từ 2009, xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng.
Dự kiến, vào năm 2036, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”. Đến năm 2038, nhóm dân số 60 tuổi trở lên ở Việt Nam chiếm 20% dân số; đến năm 2050, Việt Nam trở thành xã hội siêu già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 25% dân số(1). Điểm cơ bản tạo ra các thách thức đối với Việt Nam là nước ta chỉ có trên 20 năm để chuyển từ xã hội già hóa dân số sang xã hội dân số già, trong khi Pháp là 115 năm, Thụy Điển 89 năm, Mỹ 69 năm... Như vậy, trong khi các nước có hàng trăm năm hoặc hơn nửa thế kỷ để từng bước thay đổi chính sách, ứng phó với sự già hóa dần, Việt Nam chỉ có khoảng 1/4 thế kỷ.
Tổng tỷ suất sinh của Việt Nam đạt mức 6 vào đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Số lần sinh con trong đời, từ 6 đến 7 con trước đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, đã giảm xuống còn 2,09 vào năm 2006. Khi tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng lên, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam trong độ tuổi 15 - 64 đạt mức cao nhất vào năm 2013. Việt Nam hiện có tỷ lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử đất nước, 21,1% tổng dân số là thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10 đến 24. Thời kỳ “dân số vàng” của Việt Nam sẽ còn tiếp diễn đến năm 2039 với sự hiện diện của các nhóm dân số trẻ có năng suất lao động cao(2). Theo Niên giám thống kê 2023, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của người Việt đạt 74,5 tuổi, tăng gần 1 tuổi so với năm 2022. Liên tục từ năm 2019 đến 2022, tuổi thọ trung bình của người Việt dao động từ 73,6 - 73,7 tuổi. Thông tin về tình hình dân số, lao động việc làm quý IV-2023 và năm 2023 của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, tổng tỷ suất sinh năm 2023 của Việt Nam ước tính là 1,96 con/phụ nữ, cách xa mức 2,1 duy trì dân số thay thế. Tỷ trọng nhóm dân số trẻ từ 0 - 14 tuổi giảm từ 24,3% năm 2019 xuống khoảng 23,9% năm 2023; trong khi nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng nhanh, từ 11,9% năm 2019 lên 13,9% vào năm 2023. Nhóm dân số trong độ tuổi 15 - 59 tuổi chiếm 63,8% năm 2019 giảm xuống còn 62,2% năm 2023. Sự thay đổi nhân khẩu học này mở ra những cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với kinh tế - xã hội.
Già hóa dân số có tác động ngày càng mạnh đối với phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cả trong cả ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, già hóa dân số ảnh hưởng đến cơ cấu lực lượng lao động, từ đó, ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong dài hạn, già hóa dân số tạo ra các tác động đa chiều, nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến an sinh xã hội và văn hóa.
Suy giảm nguồn cung lao động
Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam bắt đầu trong bối cảnh khi đất nước chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó đặt ra nhiều thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình già hóa dân số từng bước dẫn tới tình trạng thiếu hụt lao động cho phát triển kinh tế, đặc biệt đối với phát triển công nghiệp và dịch vụ và đây là thách thức khi đất nước chưa hoàn thành mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Tiềm năng tăng trưởng của một nền kinh tế phụ thuộc vào mức tăng năng suất lao động và tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây có thể được hiểu là quy mô nhóm dân số trong độ tuổi lao động. Khi một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, số người bước vào độ tuổi lao động thường lớn hơn nhiều so với số người bước ra khỏi độ tuổi lao động. Mức chênh lệch giữa hai nhóm này sẽ giảm dần khi các quốc gia bước vào thời kỳ già hóa dân số. Tỷ lệ giữa số lao động tăng thêm hằng năm so với quy mô dân số trong độ tuổi lao động là tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực. Khi tỷ lệ này xuống quá thấp hay dao động ở mức trên dưới 0,5% thì nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Một trong những điều kiện tốt nhất cho tăng trưởng của một nền kinh tế là khi tăng trưởng nguồn nhân lực hằng năm ở mức 2,0%. Con số này cũng có ý nghĩa là những quốc gia đang ở thời kỳ có tỷ lệ này ở mức 2,0% là các quốc gia ở thời điểm tốt nhất của thời kỳ có cơ cấu “dân số vàng”. Tại thời điểm này, tỷ trọng nhóm dân số trong độ tuổi lao động (15 - 64) đạt tới 67 - 70%, và tỷ trọng nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc chỉ khoảng 30 - 33%.
Kết quả phân tích các số liệu thống kê về biến đổi cấu trúc tuổi của dân số Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 - 2029 cho thấy, với phương án tuổi lao động từ 15 - 64, tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực ở nước ta có xu hướng giảm nhanh. Tỷ lệ này sẽ giảm xuống ở mức khoảng 0,5% trong giai đoạn 2034 - 2039. Nếu như lấy mốc tuổi nghỉ hưu là 60 thì ngay từ năm 2029, tỷ lệ này có thể bắt đầu xuống dưới mức 0,5%. Từ năm 2040, khi nước ta sẽ có cấu trúc dân số già, yếu tố tăng trưởng nguồn nhân lực sẽ tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ từ sau năm 2040 cũng là thời kỳ mà Việt Nam không còn cơ hội “dân số vàng”.
Thách thức với hệ thống an sinh xã hội
Quá trình già hóa dân số hiện nay dẫn tới thực tế xã hội là tỷ trọng và quy mô số lượng người già ngày càng lớn. Chỉ số già hóa của Việt Nam cho thấy quá trình già hóa đang diễn ra với nhịp độ ngày càng nhanh hơn, đặt ra những thách thức to lớn về phát triển và cơ cấu lại hệ thống an sinh xã hội để thích ứng với cơ cấu dân số già từ sau năm 2040. Thách thức lớn nhất đặt ra đối với hệ thống an sinh xã hội trong giai đoạn từ sau năm 2040 là làm thế nào để thực hiện chăm sóc sức khỏe và bảo đảm sinh kế cho 15 - 20 triệu người già.
Trong bối cảnh tỷ trọng cũng như số lượng người già tăng lên nhanh trong quá trình già hóa dân số hiện nay, vấn đề sinh kế của người già hay hộ gia đình người già cần được quan tâm một cách thỏa đáng. Những kết quả phân tích số liệu từ các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam cho thấy, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp và từ tiền công lao động là thu nhập chủ yếu của hộ gia đình người già. Những khoản thu nhập có tính bảo đảm cuộc sống cho người già khi không còn đủ sức lao động như tiết kiệm, hưu trí và các khoản bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội khác chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của hộ gia đình người già. Khi tuổi càng tăng lên, nguồn thu nhập từ sản xuất, kinh doanh của người già càng giảm do khả năng lao động ngày càng suy giảm theo. Các nguồn thu nhập có tính dự phòng như hưu trí hoặc trợ cấp xã hội quá thấp sẽ ảnh hưởng tới việc bảo đảm mức sống của nhóm dân số người già.
Ước tính hiện nay mới có khoảng 25% số người già tham gia bảo hiểm xã hội và có lương hưu trí. Như vậy, nếu không nhanh chóng mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội đối với nhóm dân số đang trong độ tuổi lao động, trong vòng 20 năm tới có khoảng gần 10 triệu người già (từ 65 tuổi trở lên) nằm ngoài bảo hiểm xã hội.
So sánh với các quốc gia khác trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam mới chỉ đạt mức trung bình thấp. Do đó, cần có các chính sách khuyến khích người già tham gia thị trường lao động phù hợp, để tạo thu nhập cũng như tạo việc làm có thu nhập cao cho nhóm dân số trong tuổi lao động nhằm chuẩn bị cho cuộc sống về già. Gánh nặng chi tiêu của ngân sách nhà nước sẽ rất lớn khi hàng chục triệu người già không có thu nhập bảo đảm mức sống.
So sánh với các nhóm dân số khác (nhóm dân số lao động và nhóm trẻ em), nhóm người già có nhu cầu chăm sóc y tế lớn nhất. Ước tính chi phí chữa bệnh trung bình cho một người già cao hơn 7 - 8 lần so với trẻ em. Theo đó, hàng triệu người già ở nước ta trong tương lai gần sẽ đối mặt với thách thức về chi phí khám, chữa bệnh cao trong khi chỉ có mức thu nhập thấp. Đây là yếu tố tiềm tàng có thể dẫn tới mất ổn định xã hội.
Đặt ra những thách thức to lớn đối với hệ thống an sinh xã hội, cũng như với hệ thống y tế ở nước ta, quá trình già hóa dân số chỉ kéo dài trên 20 năm - khoảng thời gian tương đối ngắn để đất nước có thể kịp chuyển đổi các cơ cấu về an sinh xã hội cũng như hệ thống y tế. Vấn đề này đòi hỏi cần chuyển đổi kịp thời mục tiêu của chính sách dân số từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, góp phần làm chậm lại quá trình giảm sinh, dẫn tới làm chậm lại quá trình già hóa dân số, từ đó có thêm quỹ thời gian và nguồn lực giải quyết những vấn đề đang đặt ra.
Một số giải pháp
Trước những thách thức của vấn đề già hóa dân số, Việt Nam cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nhìn nhận người cao tuổi, nhóm dân số già có vai trò, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là chỗ dựa cho các thế hệ trẻ, thay vì nhìn nhận là đối tượng phải chăm lo, hưởng trợ cấp xã hội. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề già hóa dân số cần phải có vai trò tương xứng với những ảnh hưởng của vấn đề này đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Già hóa dân số đang trở thành xu hướng chung không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn cầu. Do vậy, trong phát triển kinh tế - xã hội cần tính đến cả thời cơ và thách thức mà già hóa dân số mang lại.
Thứ hai, tăng cường xây dựng hệ thống an ninh lương hưu và cải thiện các tiêu chuẩn chi trả lương hưu. Ngày 10-11-2023, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 104/2023/QH15, về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Theo đó, từ ngày 1-7-2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 21-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII. Đồng thời, thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công và một số chính sách an sinh xã hội đang gắn với lương cơ sở. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của việc cải cách toàn diện chính sách tiền lương ở nước ta, không chỉ mang lại “luồng gió mới” cho hệ thống lương hưu, mà còn cả tới các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội và các chính sách an sinh xã hội khác, tất cả đều được điều chỉnh tăng lên. Những thay đổi này không chỉ phản ánh sự thích ứng với xu hướng già hóa dân số ở nước ta mà còn cho thấy nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động sau khi họ hoàn thành quãng thời gian lao động, đóng góp cho xã hội.
Song song đó, cần nghiên cứu, sửa đổi, đồng bộ hóa các quy định giữa Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bình đẳng giới, Luật Người cao tuổi... Đưa chỉ tiêu ứng phó với già hóa dân số là chỉ tiêu trong nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và tăng cường giám sát quá trình triển khai thực hiện. Giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội nhằm bảo đảm và cải thiện thu nhập của người cao tuổi từ lao động và hưu trí.
Thứ ba, tăng cường đầu tư vào chăm sóc y tế và cải thiện tiêu chuẩn y tế. Xây dựng đồng bộ Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trong tổng thể của Chiến lược dân số Việt Nam và Chiến lược gia đình Việt Nam.
Trong suốt chặng đường phát triển, công tác y tế cơ sở đã đạt được những kết quả quan trọng. Mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp cả nước, từng bước được củng cố về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực; công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được tăng cường, nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi, phòng chống và quản lý bệnh không lây nhiễm, quản lý sức khỏe người dân bước đầu được triển khai tại tuyến xã; chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở từng bước được nâng cao, góp phần quan trọng trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh, từ 16,5% năm 2002 lên 92,04% năm 2022.
Tuy nhiên, trước thực trạng già hóa dân số như ở nước ta như hiện nay, cần hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, mở rộng, nâng cao năng lực chăm sóc, khám, chữa bệnh cho người cao tuổi, xây dựng môi trường sống thân thiện với người cao tuổi. Cần bảo đảm môi trường phát triển để quá trình già hóa dân số diễn ra một cách năng động, với sự bảo đảm sức khỏe. Đồng thời, tăng cường đào tạo cán bộ chăm sóc, cán bộ chuyên môn y tế trong công tác chăm sóc người cao tuổi và có sự hỗ trợ hơn nữa cho những người chăm sóc người cao tuổi, bao gồm các thành viên trong gia đình, các cán bộ cộng đồng. Xã hội hóa, huy động các nguồn lực đa dạng để đáp ứng các nhu cầu về y tế, văn hóa ngày càng cao của nhóm người cao tuổi; đặc biệt trong việc tham gia vào xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, hạ tầng y tế, văn hóa, xã hội cho người cao tuổi.
Thứ tư, khuyến khích thanh niên tham gia xây dựng xã hội và cải thiện tính linh hoạt của thị trường lao động. Cần hướng đến chiến lược chuẩn bị đầy đủ tài chính và sức khỏe cho tuổi già “từ xa, từ sớm”, tăng cường vận động nhóm dân số trẻ đang hoạt động kinh tế tham gia bảo hiểm xã hội để chuẩn bị cho tuổi già đầy đủ hơn vì sẽ có lương hưu, không phải tất bật kiếm tiền và hài lòng với cuộc sống hơn.
Bên cạnh đó, cần có nhiều biện pháp để cải thiện cuộc sống cho cả người trong độ tuổi và hết tuổi lao động, đặc biệt là những người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn giúp họ có cuộc sống tốt hơn nhằm chuẩn bị cho tuổi già tích cực trong bối cảnh cấu trúc tuổi dân số của Việt Nam đã và đang diễn ra theo xu hướng già hóa ngày càng nhanh ở hiện tại và tương lai. Tuyên truyền giáo dục cho thế hệ trẻ cần có lối sống lành mạnh, quan tâm nhiều đến sức khỏe để chuẩn bị cho tuổi già khỏe mạnh.
Khuyến khích người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giảm thiểu thất nghiệp, góp phần giảm tỷ số phụ thuộc chung bao gồm cả phụ thuộc già. Đổi mới trong xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút hiệu quả lực lượng lao động trong độ tuổi nghỉ hưu…, chú trọng phát triển các chính sách tạo việc làm phù hợp, cải thiện thu nhập cho người cao tuổi. Thực tế, có nhiều trường hợp người cao tuổi, đặc biệt là trong độ tuổi từ 60 đến 75, vẫn có sức khỏe, năng lực làm việc tốt, có kinh nghiệm, có nhiều khả năng đóng góp, cống hiến cho cộng đồng và xã hội.
Các chính sách tạo việc làm, thu nhập cho người cao tuổi cần được thiết kế có tính đặc thù, tận dụng được tiềm năng, thế mạnh của họ, bao quát được nhiều đối tượng thụ hưởng. Có chiến lược quan tâm giải quyết việc làm cho người cao tuổi phù hợp với nhu cầu, sức khỏe và tuổi tác. Nhà nước cần có những chương trình hỗ trợ sinh kế phù hợp với nhu cầu, sức khỏe, tuổi tác của người cao tuổi để giúp họ vừa làm chủ được tài chính, vừa giảm được thời gian nghỉ ngơi ít vận động, từ đó làm tăng sự hài lòng của họ đối với cuộc sống.
Nhìn chung, già hóa dân số của Việt Nam là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị và mọi thành phần xã hội để giải quyết. Chỉ có sự nỗ lực của toàn xã hội thì vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam mới được giải quyết một cách hiệu quả. Việc điều chỉnh chính sách dân số của Việt Nam là sự thay đổi mang tính chiến lược toàn diện. Đây không chỉ là vấn đề sinh sản mà còn liên quan đến kế hoạch phát triển chung của đất nước. Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề già hóa dân số và bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế./.
------------------------
(1) Xem: Hoa Bùi : Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số: Xây dựng Luật Dân số theo hướng thích ứng, báo Pháp Luật Việt Nam, ngày 11-8-2024, https://baophapluat.vn/viet-nam-buoc-vao-giai-doan-gia-hoa-dan-so-xay-dung-luat-dan-so-theo-huong-thich-ung-post521423.html
(2) Xem: Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA): Dân số Việt Nam cán mốc 100 triệu vào năm 2023 - Một cột mốc quan trọng, ngày 17-3-2023, https://vietnam.unfpa.org/vi/news/dân-số-việt-nam-cán-mốc-100-triệu-vào-năm-2023
Để thành phố Hải Phòng xứng đáng là động lực phát triển kinh tế của vùng Bắc Bộ và cả nước  (25/11/2024)
Đảng bộ tỉnh Lào Cai xây dựng đội ngũ cán bộ, tạo đột phá để góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững  (12/10/2024)
Phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (23/09/2024)
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX