Thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng: Kinh nghiệm thực tiễn từ các tỉnh khu vực Đông Bắc Bộ
TCCS - Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động lâm nghiệp, các tỉnh khu vực Đông Bắc Bộ tích cực triển khai các biện pháp bảo vệ và phát triển rừng; diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ chặt chẽ, tạo điều kiện cho phục hồi và tái sinh; diện tích rừng trồng được mở rộng, tỷ lệ che phủ rừng giữ ổn định. Người dân gắn bó với rừng, đời sống ngày càng ổn định và phát triển. Công tác quản lý nhà nước được chính quyền các địa phương coi trọng. Thực tiễn trong thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở các tỉnh khu vực Đông Bắc Bộ, mà điển hình là tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, là những kinh nghiệm quý cho các địa phương trong cả nước nghiên cứu, tham khảo.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI, ngày 3-12-2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-4-2005. Qua 16 năm thực hiện, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, như thể chế hóa các quan điểm phát triển lâm nghiệp của Đảng, tạo chuyển biến quan trọng trong phát triển lâm nghiệp, từ nền lâm nghiệp lấy quốc doanh là chủ yếu sang nền lâm nghiệp xã hội với nhiều thành phần kinh tế tham gia; từ chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng rừng tự nhiên sang bảo vệ, nuôi dưỡng, gây trồng, phát triển rừng; quyền và trách nhiệm của chủ rừng được luật hóa, Nhà nước bảo đảm thực hiện, bước đầu tạo cho chủ rừng gắn bó, yên tâm đầu tư bảo vệ rừng, phát triển sản xuất, kinh doanh, sử dụng có hiệu quả rừng và đất lâm nghiệp; công tác quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng đã có nhiều chuyển biến tích cực, chuyển căn bản từ quản lý bằng văn bản hành chính sang chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật và các chính sách đòn bẩy kinh tế gắn với quy hoạch, kế hoạch, định hướng thị trường… Ngày 12-1-2017, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 13-CT/TW, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng”, theo đó xác định: “Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, nhất là đối với các địa phương có rừng; tăng cường sự giám sát của người dân, cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng” và “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khắc phục sự chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, khả thi”.
Ngày 15-11-2017, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Lâm nghiệp thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng để khắc phục những mặt còn hạn chế. Luật Lâm nghiệp có nhiều điểm mới, nhưng quy định về bảo vệ và phát triển rừng (chương IV và chương V) vẫn giữ vị trí rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
Luật Lâm nghiệp quy định, rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liền vùng từ 0,3ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên. Theo quy định của Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành thì bảo vệ và phát triển rừng được hiểu là hoạt động của các tổ chức, cá nhân quản lý kết hợp với khai thác hợp lý nhằm ngăn chặn những tác nhân xâm hại đến rừng như chặt phá rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản và săn bắt động vật rừng trái phép. Phát triển rừng là hoạt động trồng mới rừng, trồng lại rừng sau khai thác, bị thiệt hại do thiên tai hoặc do các nguyên nhân khác; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi rừng, cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt và việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh khác để tăng diện tích, trữ lượng, chất lượng rừng.
Về nguyên tắc, Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, tổ chức quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm các diện tích rừng có chủ. Chủ rừng phải thực hiện quản lý rừng bền vững; có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng theo quy chế quản lý rừng. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được tổ chức thống nhất, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Kiểm lâm là tổ chức có chức năng quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp; là lực lượng chuyên ngành về phòng cháy và chữa cháy rừng.
Những năm trước đây, diện tích rừng của vùng Đông Bắc Bộ còn thấp do việc khai thác bừa bãi, do áp lực của gia tăng dân số. Rừng nguyên sinh chỉ còn ở vùng núi non hiểm trở. Hiện nay, chính quyền các địa phương quan tâm hơn tới công tác bảo vệ và phát triển rừng, coi việc trồng rừng và tu bổ rừng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ tài nguyên, cân bằng sinh thái, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp giấy, công nghiệp chế biến gỗ… Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 31-12-2018, diện tích rừng cả nước có 14.491,3 nghìn héc-ta, trong đó rừng tự nhiên có 10.255,5 nghìn héc-ta, rừng trồng có 4.235,8 nghìn héc-ta, tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,7%. Các tỉnh Đông Bắc Bộ có diện tích rừng là 3.044,3 nghìn héc-ta, chiếm 21% diện tích rừng cả nước; tỷ lệ che phủ rừng cao so với trung bình cả nước (thấp nhất là tỉnh Bắc Giang với 37,6%, cao nhất là tỉnh Bắc Kạn có tỷ lệ 72,6%). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng nhanh, diện tích rừng tăng đều và ổn định, năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng không ngừng được nâng lên; xây dựng các mô hình chuyển hóa rừng trồng cây gỗ nhỏ sang gỗ lớn tại một số tỉnh, như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ…
Có được những kết quả trên là do những năm qua, cấp ủy, chính quyền các tỉnh vùng Đông Bắc Bộ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, đồng thời chỉ đạo trực tiếp về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được xác định không chỉ là nhiệm vụ riêng của các cơ quan chuyên môn mà là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, do vậy, đã đạt được những kết quả tích cực, từng bước giảm dần các điểm nóng về tình trạng chặt phá rừng, khai thác rừng trái pháp luật. Nhận thức của nhân dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, phát triển rừng ngày một nâng cao tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Kết quả thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, cấp ủy, chính quyền các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên đã ban hành nhiều văn bản nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao:
Tỉnh Tuyên Quang ban hành Chương trình số 14 - CTr/TU, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 12-1-2017, của Ban Bí thư; Nghị quyết số 40/NQ-HĐND, ngày 7-12-2016, của Hội đồng nhân dân tỉnh về điều chỉnh Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2011 - 2020, bổ sung quy hoạch đến năm 2025; Quyết định số 65/QĐ-UBND, ngày 17-3-2010, của Ủy ban nhân dân tỉnh, về việc phê duyệt Đề án giao rừng trồng gắn với giao đất lâm nghiệp thuộc Chương trình 327 và Dự án 661 đã quy hoạch lại là rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang năm 2010; Quyết định số 258/QĐ-UBND, ngày 7-9-2015, của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt phương án giao rừng trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đã quy hoạch lại là rừng sản xuất sau điều chỉnh phân 3 loại rừng theo Quyết định số 1770/QĐ-CT, ngày 31-12-2012, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh…
Tỉnh Thái Nguyên ban hành Chương trình hành động số 17-CTr/TU, ngày 22-9-2017, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 12-1-2017, của Ban Bí thư; Nghị quyết số 03/2011/NQ-HĐND, ngày 3-4-2011, của Hội đồng nhân dân tỉnh về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2020; Kế hoạch số 152/KH-UBND, ngày 11-10-2017, của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện Nghị quyết số 71/NQ-CP, ngày 8-8-2017, của Chính phủ…
Tỉnh Bắc Kạn ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU, ngày 15-5-2017, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về tăng cường quản lý, bảo vệ các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND, ngày 11-4-2017, của Hội đồng nhân dân tỉnh, quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa tỉnh Bắc Kạn, giai đoạn 2017 - 2020; Quyết định số 1342/QĐ-UBND, ngày 5-8-2019, của Ủy ban nhân dân tỉnh, về việc quy định mức hỗ trợ đầu tư bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Bắc Kạn…
Nhờ bám sát định hướng của Trung ương, đồng thời xác định đúng trách nhiệm, nguồn lực của địa phương, nên các tỉnh đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị trong công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng, khơi dậy được tiềm năng sẵn có của địa phương, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia, để công tác bảo vệ và phát triển rừng từng bước ổn định, hiệu quả. Các vụ, việc vi phạm về phá rừng, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ lâm sản trái phép đã được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Công tác phát triển rừng hằng năm đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch giao, góp phần sử dụng hiệu quả đất lâm nghiệp, tạo thu nhập bền vững cho người dân và thu hút các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ rừng trồng đầu tư sản xuất.
Để nhân dân chủ động tham gia công tác bảo vệ và phát triển rừng, các tỉnh thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, cá nhân có liên quan đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Trung ương, của tỉnh trong bảo vệ và phát triển rừng. Trong đó, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn và lực lượng kiểm lâm các tỉnh phải đi đầu trong công tác tuyên truyền, thực hiện Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các tỉnh chỉ đạo triển khai một cách đồng bộ, sâu rộng, kịp thời tới các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn các văn bản quan trọng như: Luật Lâm nghiệp; Nghị định số 156/2018/NĐ-CP, ngày 16-11-2018, về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp; Nghị định số 01/2019/NĐ-CP, ngày 1-1-2019, về kiểm lâm và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng; Nghị định số 06/2019/NĐ-CP, ngày 22-1-2019, về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25-4-2019, về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp…, cùng các thông tư hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các văn bản chỉ đạo, điều hành của tỉnh ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh. Hình thức, phương pháp tuyên truyền về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn các tỉnh trong thời gian qua cũng đã được đổi mới, đa dạng hơn nhằm nâng cao hiệu quả như: Tổ chức hội nghị trực tuyến; ban hành bộ tài liệu tuyên truyền; thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; đăng tải trên cổng thông tin điện tử tỉnh và trang thông tin điện tử của các sở, ngành trên địa bàn… Từ năm 2017 đến năm 2019, chi cục kiểm lâm 3 tỉnh đã tổ chức 8.240 cuộc tuyên truyền cho hơn 432.523 lượt người, cấp phát hơn 9.600 tờ rơi, tài liệu hướng dẫn về bảo vệ và phát triển rừng. Bên cạnh đó còn phối hợp với đài phát thanh và truyền hình tỉnh thực hiện các chuyên mục về quản lý bảo vệ rừng; đưa tin, bài trên báo tỉnh (1).
Bên cạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, các tỉnh thường xuyên nắm chắc tình hình và chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng. Chi cục kiểm lâm các tỉnh thành lập các đoàn kiểm tra từ tỉnh đến cơ sở để tổ chức tuần tra, kiểm soát các tụ điểm khai thác lâm sản, tài nguyên khoáng sản trái phép trên đất rừng và các hoạt động mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép. Lực lượng chức năng các huyện tiếp giáp giữa các tỉnh như: Na Hang, Chiêm Hóa, Yên Sơn, Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang; Pác Nặm, Ba Bể, Chợ Đồn, Chợ Mới của tỉnh Bắc Kạn; Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đồng Hỷ của tỉnh Thái Nguyên thường xuyên phối hợp kiểm tra, kiểm soát tại các khu vực giáp ranh, các tuyến đường mòn, lối mở để ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Từ năm 2017 đến năm 2019, các tỉnh xử lý 3.405 vụ vi phạm (trong đó có 106 vụ có dấu hiệu vi phạm hình sự), thu nộp ngân sách nhà nước 27,4 tỷ đồng. Vi phạm tập trung vào các hành vi phá rừng, khai thác rừng trái phép, vận chuyển lâm sản trái phép, mua bán, cất giữ lâm sản rừng trái phép, vi phạm các quy định về bảo vệ động vật rừng... Nhìn chung, tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng của 3 tỉnh giảm dần theo từng năm (so với 2017, Tuyên Quang giảm 175 vụ, Bắc Kạn giảm 143 vụ, Thái Nguyên giảm 358 vụ (2). Có được kết quả trên là nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan chức năng của các tỉnh trong công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đồng thời với xử lý nghiêm các vi phạm để răn đe.
Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng được các tỉnh tổ chức triển khai nghiêm túc theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tăng cường các biện pháp cấp bách về phòng cháy chữa cháy rừng… Ủy ban nhân dân các tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn tại địa phương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan và ủy ban nhân dân các huyện, xã có rừng trên địa bàn tỉnh tổ chức các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng phù hợp bảo đảm hiệu quả, an toàn khi chữa cháy rừng. Thường xuyên kiện toàn ban chỉ đạo phòng cháy, chữa cháy rừng các cấp, củng cố lực lượng phòng cháy và chữa cháy rừng chuyên trách và bán chuyên trách. Lực lượng quân đội, công an chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tăng cường phối hợp với lực lượng kiểm lâm làm tốt công tác tham mưu để chính quyền chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng. Chỉ đạo làm tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng tại chỗ; các đơn vị trực thuộc sẵn sàng lực lượng, trang thiết bị chủ động tham gia chữa cháy rừng khi được huy động. Tổ chức diễn tập phòng cháy, chữa cháy rừng, duy trì vận hành hệ thống thiết bị cảnh báo cháy rừng. Nhờ các biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện quyết liệt, nên từ năm 2017 đến năm 2019, trên địa bàn 3 tỉnh chỉ có 23 vụ cháy, làm thiệt hại 28,34ha rừng (3).
Thực hiện pháp luật về phát triển rừng, các tỉnh đã tập trung chỉ đạo nhiều biện pháp như quản lý khai thác lâm sản, quy hoạch rừng, giao rừng, thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, quản lý giống cây lâm nghiệp, thực hiện chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, xây dựng quỹ bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên… Nhờ sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự đồng lòng của nhân dân, công tác bảo vệ và phát triển rừng của các tỉnh đều đạt được những kết quả tích cực.
Tính đến cuối năm 2019, Tuyên Quang hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch trồng rừng tập trung (tổng số 11.385,2ha, bằng 108,4% kế hoạch), bảo vệ toàn bộ diện tích 422.472,5ha rừng trồng hiện có trên địa bàn toàn tỉnh, khai thác tổng diện tích rừng trồng tập trung 9.617,1ha, tổng sản lượng gỗ 865.509 m3, bằng 100,8% kế hoạch (4). Thực hiện công tác quy hoạch vùng nguyên liệu bảo đảm đủ nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh; cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của 5 công ty lâm nghiệp thuộc tỉnh quản lý theo phương án tổng thể được duyệt; triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, đề án nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả rừng trồng của tỉnh; các chỉ tiêu sản xuất lâm nghiệp của tỉnh luôn hoàn thành vượt kế hoạch nhà nước giao (trồng rừng hằng năm vượt từ 2 đến 6% kế hoạch, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng hằng năm đạt trên 840.000 m3, đứng đầu khu vực phía Bắc); tổ chức thực hiện hỗ trợ giống cây lâm nghiệp chất lượng cao theo Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐND, ngày 25-7-2017, của Hội đồng nhân dân tỉnh được 2.062,88ha rừng (đáp ứng 100% nhu cầu đăng ký); hướng dẫn, đôn đốc thực hiện mở rộng diện tích rừng được cấp chứng chỉ rừng bền vững, nâng diện tích rừng được cấp chứng chỉ FSC toàn tỉnh lên là 25.366 ha (đứng đầu cả nước); triển khai thực hiện hiệu quả các cơ chế hỗ trợ đầu tư bảo vệ và phát triển rừng thuộc Chương trình mục tiêu phát triển rừng bền vững(5).
Tỉnh Bắc Kạn thực hiện trồng được 6.758,84ha/5.735ha, đạt 117,9 % kế hoạch giao, kết quả nghiệm thu rừng đạt 6.508,58ha/5.735ha, đạt 113,5% kế hoạch giao, trong đó diện tích trồng gỗ lớn là 3.307,8ha (chiếm 50,8% so với diện tích rừng trồng), diện tích rừng trồng tập trung là 3.708,8ha và diện tích trồng cây phân tán là 2.799,78ha với các loài cây chủ yếu lát hoa, mỡ, quế, xoan ta, thông mã vĩ, tông dù(6)... Năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh sản xuất được trên 11,2 triệu cây giống lâm nghiệp các loại phục vụ cho công tác trồng rừng (trong đó cây gieo ươm mới năm 2019 là 9,2 triệu cây; cây gieo ươm năm 2018 chuyển sang là 2 triệu cây). Cơ bản giống đưa vào sản xuất đã được quản lý khá chặt chẽ theo chuỗi hành trình từ khâu công nhận giống, nguồn giống, vật liệu nhân giống đến cây con trồng rừng. Chất lượng giống từng bước được cải thiện, diện tích rừng trồng từ nguồn giống đã được công nhận đạt trên 90%, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả rừng trồng. Cơ cấu loài cây trồng phù hợp với từng đối tượng rừng và khuyến cáo người dân căn cứ vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện lập địa, ưu tiên các diện tích thuộc chân đồi và sườn đồi, xem xét trồng xen các loài cây gỗ lớn, như trám, lát, sao trên diện tích trồng các loài cây gỗ nhỏ, như mỡ, keo hoặc quế, mật độ trồng xen tối thiểu 200 cây lát, trám/ha(7).
Tỉnh Thái Nguyên trồng được 5.396,67ha rừng tập trung, trong đó trồng rừng phòng hộ là 405,80ha; trồng rừng sản xuất 4.990,87ha. Trồng rừng theo Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững là 2.554,0 ha/2.554,0ha (đạt 100% kế hoạch); trồng theo chương trình dự án khác: 423,0ha; người dân tự bỏ vốn ra trồng 2.419,67ha; trồng cây phân tán 682.740 cây (1.000 cây/ha); khoán bảo vệ rừng 32.478ha; chăm sóc rừng trồng 1.094ha (đạt 100% kế hoạch năm). Tổ chức triển khai trồng rừng thay thế trên địa bàn 3 huyện Đại Từ, Võ Nhai, Đồng Hỷ với tổng diện tích 83ha. Triển khai thực hiện công tác quản lý giống cây trồng lâm nghiệp theo Thông tư số 30/2018/TT-BNNPTNT, ngày 16-11-2018, quy định danh mục loài cây trồng lâm nghiệp chính; công nhận giống và nguồn giống; quản lý vật liệu giống cây trồng lâm nghiệp, báo cáo tình hình quản lý giống cây trồng lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tổng số cây giống được sản xuất là trên 26,7 triệu cây phục vụ trồng rừng năm 2019. Xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn theo Quyết định số 2962/QĐ-BNN-TCLN, ngày 30-7-2019, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với loài cây keo lai và keo tai tượng. Phấn đấu năm 2020, trên địa bàn mỗi huyện, thành phố, thị xã xây dựng từ 1 đến 3 mô hình trồng rừng gỗ lớn (7).
Công tác phối hợp giữa các lực lượng bảo vệ và phát triển rừng được các tỉnh quan tâm thực hiện, đặc biệt là sự phối hợp giữa các lực lượng kiểm lâm, công an, quân đội, thực hiện có chiều sâu, phát huy hiệu quả rõ rệt trong hoạt động của kiểm lâm địa bàn. Chi cục kiểm lâm các tỉnh tiếp tục phối hợp hiệu quả với Kiểm lâm vùng I trong công tác trao đổi thông tin, báo cáo tình hình quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn; chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp hiệu quả tại các cụm an ninh liên hoàn; chủ động phối hợp trong quản lý rừng giáp ranh với lực lượng kiểm lâm của 3 tỉnh (9).
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở khu vực Đông Bắc Bộ, điển hình là 3 tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, vẫn còn không ít hạn chế, như: Các hành vi vi phạm Luật Lâm nghiệp chưa được ngăn chặn triệt để, nhất là hành vi phá rừng, khai thác, vận chuyển, mua bán lâm sản trái phép; việc quản lý nguồn gốc cây trồng lâm nghiệp chưa chặt chẽ; công tác tham mưu cho chính quyền địa phương về công tác quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp chưa kịp thời; kinh phí để đầu tư lĩnh vực lâm nghiệp còn hạn chế; triển khai chính sách về lâm nghiệp ở một số địa phương, theo dõi, cập nhật diễn biến rừng và đất lâm nghiệp còn chậm, chưa đầy đủ...
Những hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: Lợi nhuận thu được từ khai thác trái phép lâm sản cao nên nhiều đối tượng cố tình vi phạm các quy định của pháp luật; đời sống người dân sống gần rừng còn nhiều khó khăn, thiếu đất sản xuất, trình độ dân trí chưa cao; cấp ủy, chính quyền cấp huyện, cấp xã ở một số nơi chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, giám sát hoạt động bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp; công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm của một số cơ quan chức năng chưa thực sự quyết liệt; diện tích rừng được giao quản lý lớn trong khi thiếu nhân lực kiểm tra để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm; trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác còn thiếu...
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở khu vực Đông Bắc Bộ
Để nâng cao chất lượng việc thực hiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường rừng, góp phần ổn định đời sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số sống gần rừng khu vực Đông Bắc Bộ, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Quản lý nghiêm nguồn gốc giống cây trồng lâm nghiệp theo Thông tư số 30/2018/TT-BNNPTNT, ngày 16-11-2018, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; thực hiện nghiêm túc các thông tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như: Thông tư số 32/2018/TT-BNNPTNT, quy định phương pháp định giá rừng, khung giá rừng; Thông tư số 25/2019/TT-BNNPTNT, quy định về phòng cháy và chữa cháy rừng... Chủ động tham mưu, đề xuất thực hiện các cơ chế, chính sách, pháp luật về lâm nghiệp, nhất là các cơ chế, chính sách mới được Trung ương ban hành bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tiễn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng, kinh doanh, phát triển nghề rừng, ổn định đời sống người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số sống gần rừng. Các địa phương căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của mình để xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy định phù hợp nhằm thúc đẩy sản xuất, chế biến, kinh doanh những sản phẩm từ rừng và hạn chế thấp nhất những hành vi vi phạm pháp luật lâm nghiệp. Tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng.
Hai là, thực hiện đúng quy định của pháp luật về tổ chức kiểm tra, giám sát nâng cao chất lượng công tác xử phạt vi phạm hành chính, trong quản lý và xử lý tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu tại các đơn vị trực thuộc; hướng dẫn về nghiệp vụ xử lý vi phạm hành chính, điều tra hình sự, nghiên cứu, đề xuất xử phạt vi phạm hành chính các vụ vi phạm thuộc thẩm quyền. Chủ động nắm bắt thông tin, tổ chức kiểm tra, kiểm soát lâm sản tại các địa bàn trọng điểm, các vùng giáp ranh có nguy cơ bị xâm hại cao để phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm. Chỉ đạo các lực lượng kiểm lâm, quân đội, công an, quản lý thị trường và các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ trong công tác bảo đảm chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; đặc biệt là lực lượng kiểm lâm phải chủ động phối hợp với lực lượng công an trong điều tra khám phá các vụ án hình sự xâm hại rừng. Tiếp tục tăng cường chỉ đạo các đơn vị thực hiện các biện pháp kiểm tra, kiểm soát lâm sản trong các khâu, đặc biệt là khâu chế biến, kinh doanh, lưu thông lâm sản là rừng tự nhiên; giám sát chặt chẽ nhập, xuất, chế biến lâm sản để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các cơ sở vi phạm.
Ba là, tăng cường công tác phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm của các tỉnh giáp ranh. Xây dựng kế hoạch phối hợp, phương án nâng cao hiệu quả quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng vùng giáp ranh. Chủ động tham mưu, phối hợp xây dựng và ký kết quy chế phối hợp trong quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản vùng giáp ranh nhằm bảo vệ vốn rừng hiện có, hạn chế thấp nhất tình trạng xâm hại rừng. Thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp cùng tuần tra, kiểm tra địa bàn quản lý để nắm được và thông báo cho nhau về phong tục, tập quán của người dân mỗi địa phương, đặc biệt là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, để thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng khu vực giáp ranh.
Thường xuyên phối hợp kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn kịp thời hiện tượng xâm canh, xâm cư, có biện pháp giải quyết, xử lý đúng quy định pháp luật các trường hợp vi phạm. Đặc biệt với công tác bảo vệ rừng, ngoài tôn trọng địa giới hành chính còn phải tuyên truyền để người dân sống ở vùng giáp ranh có ý thức quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng. Chính quyền các xã và kiểm lâm cấp tỉnh, huyện cùng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về tăng cường biện pháp cấp bách bảo vệ rừng, xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, bảo vệ rừng, ngăn chặn, truy quét các tổ chức, cá nhân có hành vi phá hoại rừng, khai thác, mua bán, tàng trữ, vận chuyển lâm sản trái phép; kịp thời nắm bắt tình hình thông báo cho nhau các diễn biến liên quan để có biện pháp giải quyết... Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành về quản lý bảo vệ rừng để tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện ngăn chặn hành vi vi phạm. Trong đó, đặc biệt quan tâm những địa bàn vùng giáp ranh địa dư rộng, có nhiều dân tộc sinh sống hay xảy ra vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng./.
------------------
(1), (2), (3) Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2017, 2018, 2019 của Chi cục Kiểm lâm 3 tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn
(4) Báo cáo kết quả thực hiện sản xuất lâm nghiệp năm 2019 của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Tuyên Quang
(5) http://snntuyenquang.gov.vn/tin-tuc/tin-san-xuat/lam-nghiep/cong-tac-quan-ly-bao-ve-va-phat-trien-rung-tren-dia-ban-tinh-tuyen-quang-giai-doan-2018-2020!-8193.html
(6) Báo cáo kết quả hoạt động của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bắc Kạn năm 2019
(7) Báo cáo kết quả hoạt động của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bắc Kạn năm 2019.
(8) Báo cáo tổng kết công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng năm 2019 của tỉnh Thái Nguyên.
(9) Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2017, 2018, 2019 của Chi cục Kiểm lâm 3 tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên  (15/11/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển