Khai thác tiềm năng, lợi thế thúc đẩy Hà Nội phát triển nhanh và bền vững
TCCS - Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và giao dịch quốc tế, đóng vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển đất nước, là một trong những động lực chính để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng. Để phát triển Thủ đô theo Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24-1-2022, của Bộ Chính trị, Hà Nội cần hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực về con người, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, tối ưu hiệu quả nguồn lực từ đất đai và khơi dậy nguồn lực từ tài sản công và khoa học, công nghệ.
Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã triển khai bài bản, khoa học các nhiệm vụ và đạt được kết quả quan trọng, khá toàn diện, có nhiều dấu ấn nổi bật. Trong đó, kinh tế Thủ đô tiếp tục được cơ cấu lại, nhất là trên các lĩnh vực trọng tâm, tăng trưởng khá, cao hơn bình quân chung cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại.
Mặc dù chỉ chiếm 1% về diện tích, 8,5% về dân số nhưng Hà Nội đóng góp trên 16% GDP, 18,5% thu ngân sách, 20% thu nội địa và 8,6% kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước, ngày càng xứng đáng với vai trò là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Riêng năm 2023, thành phố cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát. Các ngành, lĩnh vực đều phát triển khá. GRDP bình quân đầu người đạt 151,1 triệu đồng/năm. Khách du lịch đến thủ đô Hà Nội đạt 24 triệu lượt (20 triệu lượt khách nội địa; 4 triệu lượt khách quốc tế). Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 410,51 nghìn tỷ đồng, vượt 16,3% dự toán, tăng 23% so với thực hiện năm 2022, trong đó, thu nội địa đạt 381,38 nghìn tỷ đồng chiếm 92,9%. Cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh, Chỉ số cải cách hành chính (PAR-Index) tăng 7 bậc, Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) tiếp tục giữ hạng.
Cùng với đó, công tác an sinh xã hội được bảo đảm. Thành phố luôn quan tâm thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là đối với người có công; công tác giảm nghèo và thực hiện bảo trợ xã hội được chú trọng.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được thực hiện tích cực, Hà Nội hoàn thành trước 1 năm mục tiêu xây dựng huyện nông thôn mới. Diện mạo Thủ đô có nhiều thay đổi, ngày càng khang trang. Nhiều công trình, dự án kinh tế, xã hội quy mô lớn, hiện đại đã được hoàn thành. Công tác quy hoạch, quản lý đất đai, quản lý đô thị, trật tự, an toàn giao thông, trật tự, kỷ cương đô thị có chuyển biến tích cực. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ được quan tâm, đầu tư, trở thành động lực mới, nguồn lực mới cho phát triển bền vững Thủ đô.
Quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại tiếp tục được tăng cường và mở rộng trên cả ba kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và giao lưu nhân dân. Hà Nội đã có quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thành phố, thủ đô của các nước. Trong đó, đã ký thỏa thuận hợp tác với hơn 60 thủ đô, thành phố các nước; có quan hệ kinh tế thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ... Đồng thời, việc liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước ngày càng được tăng cường; vai trò, vị thế, uy tín của Thủ đô được nâng cao.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều đổi mới. Đảng bộ thành phố đã gương mẫu, đi đầu thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các nghị quyết của Trung ương; luôn giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, hợp tác, trách nhiệm, bản lĩnh trong cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Công tác củng cố các tổ chức cơ sở đảng, giải quyết những vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội có nhiều kết quả tích cực.
Công tác cán bộ được thực hiện bài bản, khoa học, nghiêm túc, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ có chuyển biến rõ rệt. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Truyền thống đoàn kết, thống nhất, hợp tác, trách nhiệm, bản lĩnh trong cấp ủy và tổ chức đảng các cấp được giữ vững và phát huy, tạo nền tảng xây dựng Đảng bộ thành phố ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo.
Tiếp nối tinh thần đầu tàu gương mẫu, quyết tâm vươn lên, Hà Nội đang bắt tay vào hiện thực những mục tiêu trong Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, để đến năm 2030, Hà Nội trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; hội nhập quốc tế sâu rộng, có sức cạnh tranh cao với khu vực và thế giới, phấn đấu phát triển ngang tầm Thủ đô các nước phát triển trong khu vực… Và tầm nhìn phát triển Thủ đô đến năm 2045, Hà Nội có chất lượng cuộc sống cao, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, bền vững; là thành phố kết nối toàn cầu, có sức cạnh tranh quốc tế. Đó cũng là khát vọng và niềm tin mà người dân cả nước gửi gắm vào sự chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Ngày 24-5-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 80-KL/TW về “Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065”. Đây là căn cứ chính trị quan trọng để Thủ đô phát triển.
Kết luận của Bộ Chính trị nêu rõ: “Trong những năm qua, Thủ đô Hà Nội luôn khẳng định vị thế trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trái tim của cả nước; trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế; có bề dày lịch sử, văn hoá với số lượng di sản, di tích lớn nhất cả nước, hệ thống danh lam thắng cảnh phong phú và đặc sắc, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước”.
Thống nhất với các quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn và nội dung chủ yếu của các quy hoạch, Bộ Chính trị cũng lưu ý một số nội dung quan trọng. Trong đó yêu cầu tiếp tục rà soát, xác định rõ chức năng, vị trí, vai trò của Thăng Long - Hà Nội trong suốt hơn 1.000 năm lịch sử và các tiềm năng, lợi thế, đặc thù riêng của Hà Nội để khai thác, phát huy tối đa cho phát triển Thủ đô.
Cùng với đó, đánh giá cụ thể các hạn chế, bất cập để thấy rõ nguyên nhân gốc rễ của điểm nghẽn, nút thắt, từ đó có tư duy đổi mới, giải pháp đột phá, chiến lược gắn với lộ trình ưu tiên thực hiện. Giải pháp thực hiện các quy hoạch cần gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả với các cơ chế, chính sách ưu tiên, vượt trội để phát triển Thủ đô, gắn với Luật Thủ đô (sửa đổi). Nghiên cứu dự báo, tính toán kỹ lưỡng vấn đề dân số, phù hợp với tốc độ đô thị hoá và phát triển của Thủ đô trong từng giai đoạn.
Bộ Chính trị đề nghị tăng cường phân cấp, phân quyền, thực hiện cơ chế thí điểm phù hợp, hiệu quả cho Thủ đô, trọng tâm là các lĩnh vực đầu tư, tài chính, thu hút nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, cơ chế hợp tác công tư, quy hoạch, đất đai, phát triển văn hoá, quản lý phát triển đô thị, quản lý trật tự xây dựng, giao thông, vệ sinh, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, quản lý dân cư, tổ chức bộ máy, cán bộ, biên chế nhằm tạo sự chủ động sáng tạo, tăng tính tự chủ, tự lực, tự cường, tự chịu trách nhiệm, cơ chế kiểm soát quyền lực trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Thủ đô Hà Nội.
Tập trung xây dựng kế hoạch và chương trình phát triển đô thị theo mô thức đô thị trung tâm, đô thị vệ tinh, vùng đô thị... để triển khai thực hiện hai quy hoạch của Thủ đô có hiệu quả, trong đó thể hiện rõ các nhiệm vụ, chương trình, đề án, dự án lớn cần ưu tiên, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với phân kỳ thời gian, nguồn lực thực hiện, đồng thời khẳng định vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương.
Đặc biệt, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch và kỷ cương quy hoạch; nghiên cứu xây dựng Cung triển lãm Quy hoạch của Thủ đô để công khai các quy hoạch, cung cấp thông tin quy hoạch, tiếp nhận các phản ánh, góp ý, giám sát thực hiện quy hoạch của cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng xây dựng, thực hiện các quy hoạch và là sản phẩm du lịch…
Phát huy nguồn lực về con người
Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt ra nhiệm vụ cần "có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế". Đối tượng thu hút bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài có năng lực vượt trội, trình độ chuyên môn cao, tài năng đặc biệt trong một số lĩnh vực và có kinh nghiệm thực tiễn, có công trình, sản phẩm, thành tích, công trạng hoặc cống hiến đặc biệt để phát triển một lĩnh vực, một ngành của Thủ đô.
Theo đó, cần thực hiện các chính sách hỗ trợ từ ngân sách thành phố để đầu tư cho việc phát triển cơ sở đào tạo trọng điểm quốc gia có đa cấp học; đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài cho cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên của Thủ đô; bên cạnh đó, hình thành các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng về đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao trên địa bàn Thủ đô để phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao... phục vụ cho định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút đầu tư nước ngoài. Đây có thể xem là các nội dung rất quan trọng, nhằm tạo ra "cú hích" trong cơ chế thu hút, trọng dụng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho Thủ đô.
Thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển
Theo dự kiến, trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội mà Thủ đô cần cho giai đoạn 2026 - 2030 là khoảng 3,4 triệu tỷ đồng. Trong đó, khoảng 2,6 triệu tỷ sẽ cần được huy động từ khu vực tư nhân. Vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước dự kiến sẽ chỉ là 715 nghìn tỷ. Thậm chí trong số 715 nghìn tỷ này, dự kiến khoảng 50% sẽ được huy động từ khu vực tư nhân dưới nhiều hình thức, đặc biệt theo hình thức đối tác công tư hay huy động sự tham gia của tư nhân vào việc xây dựng các kết cấu hạ tầng thiết yếu của Thủ đô.
Các cơ chế được đề xuất trong Luật Thủ đô được kỳ vọng sẽ thu hút mạnh mẽ hơn sự tham gia của khu vực tư nhân nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội này. Ngoài cơ chế như phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD), dự thảo cũng quy định về các cơ chế, như cho phép các dự án PPP trong lĩnh vực văn hoá, thể thao ở các dự án có quy mô lớn, và các chính sách nhằm thu hút nhà đầu tư chiến lược.
Những chính sách này được kỳ vọng sẽ thu hút được mạnh mẽ đầu tư từ khu vực tư nhân, bao gồm cả đầu tư vào các kết cấu hạ tầng thiết yếu, các công trình văn hóa, thể thao, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, trường học, bệnh viện nhằm xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn; phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa để thúc đẩy vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triển.
Tối ưu hiệu quả nguồn lực từ đất đai
Thủ đô Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn nhiều địa phương khác khi giá trị thương mại từ đất tại các đô thị của Hà Nội là rất cao. Với định hướng phát triển đô thị theo Quy hoạch chung theo Quyết định số 1259/QĐ-TTg hoặc Quy hoạch chung điều chỉnh thì Thủ đô Hà Nội có quỹ đất để trở thành nguồn nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Cơ chế phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng sẽ cho phép thành phố huy động nguồn lực từ đất để phát triển đường sắt đô thị, trong đó việc quy hoạch vùng phụ cận và thu hồi, đấu giá đất trong vùng phụ cận là biện pháp để thu lại giá trị gia tăng từ đất để tạo nguồn lực cho phát triển đường sắt đô thị. Quy định này đã cơ bản thể hiện được về biện pháp, cách thức triển khai thực hiện và giải pháp kết hợp giữa dự án đường sắt đô thị và dự án phát triển đô thị.
Cơ chế này được kỳ vọng sẽ khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô về đất đai nhằm phục vụ trực tiếp cho xây dựng các kết cấu hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là các tuyến đường sắt đô thị. Nó cũng góp phần khắc phục được một hạn chế hiện nay là việc thu hồi giá trị tăng thêm từ đất chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước vào kết cấu hạ tầng, và các hạn chế của quy định pháp luật hiện tại chưa cho phép Nhà nước có thể thu được chênh lệnh địa tô sau khi Nhà nước đã đầu tư kết cấu hạ tầng.
Khơi dậy nguồn lực từ tài sản công và khoa học, công nghệ
Thành phố Hà Nội có một số lượng lớn các công trình hạ tầng văn hóa, thể thao. Thực tiễn cho thấy rất nhiều công trình này chưa được sử dụng, khai thác một cách hiệu quả và xuống cấp nhanh chóng do thiếu các nguồn lực để duy tu, bảo dưỡng và đầu tư bổ sung.
Luật Thủ đô quy định cho phép thành phố được nhượng quyền kinh doanh, quản lý các công trình hạ tầng văn hóa, thể thao nhằm sử dụng, khai thác hiệu quả công trình, tạo nguồn thu để tái đầu tư, bảo dưỡng, phát triển công trình, tăng khả năng tự chủ của các đơn vị sự nghiệp. Đây là quy định rất phù hợp với chủ trương, định hướng chỉ đạo và tình hình thực tiễn.
Đồng thời, cụ thể hoá phương thức hợp đồng kinh doanh - quản lý (O&M) của Luật PPP với công trình, hạ tầng văn hóa, thể thao. Biện pháp này giúp huy động nguồn lực xã hội tham gia, hợp tác với Nhà nước khai thác, vận hành và bảo trì có hiệu quả, đúng công năng của công trình văn hóa, thể thao; tổ chức nhiều hơn, rộng rãi hơn các hoạt động văn hóa, thể thao; giúp Nhà nước, nhà đầu tư thu được lợi ích kinh tế cao hơn từ việc hợp tác và giúp cho người dân có cơ hội được tiếp cận, sử dụng các công trình văn hoá, thể thao, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển công nghiệp văn hoá trên địa bàn Thủ đô.
Nguồn lực tài sản công trong lĩnh vực văn hóa, thể thao của Thủ đô dự kiến sẽ được phát huy mạnh mẽ hơn nữa về công năng, về khả năng tạo ra nguồn thu và từ đó bảo đảm tính bền vững và khả năng phục vụ tốt hơn cho người dân Thủ đô và người dân cả nước.
Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định "… lấy khoa học công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô". Trên cơ sở đó, Luật Thủ đô đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm thực hiện Nghị quyết và khắc phục các bất cập thực tiễn, hướng tới xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao và phát triển công nghệ hàng đầu của cả nước, tiến tới là trung tâm khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của khu vực Đông Nam Á.
Các giải pháp nhằm tháo gỡ ách tắc về cơ chế quản lý khoa học theo hướng áp dụng hình thức khoán kinh phí theo kết quả, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học – công nghệ, quy định các trường hợp mua sắm thuê hàng hóa, dịch vụ để thực hiện nhiệm vụ khoa học - công nghệ mà không phải thực hiện thủ tục đấu thầu; cơ chế chuyển giao không bồi hoàn tài sản, kết quả, sản phẩm hình thành từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho các cá nhân, tổ chức có đủ năng lực ứng dụng, phát triển kết quả, sản phẩm phục vụ công tác quản lý, phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ của Thủ đô.
Luật Thủ đô cũng trao quyền cho thành phố Hà Nội lập quy hoạch và xây dựng, phát triển các khu công nghệ cao, bao gồm cả khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và chuyển giao Khu công nghệ cao Hòa Lạc từ Trung ương về Hà Nội quản lý, phù hợp với quy hoạch chung về khu công nghệ cao của Thủ đô. Đây là một giải pháp quan trọng, nổi trội nhằm xây dựng cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và xã hội cần thiết thực hiện mục tiêu thu hút các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực công nghệ cao thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển đặt trụ sở tại Hà Nội như Nghị quyết số 15-NQ/TW đã xác định.
Như vậy, Luật Thủ đô đã có các tiếp cận có tính hệ thống nhằm huy động sức mạnh tổng hợp, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của Thủ đô. Kỳ vọng rằng các cơ chế, giải pháp chính sách đưa ra trong Luật Thủ đô sẽ thực sự tạo ra các bước chuyển có tính đột phá để đánh thức tiềm năng của Thủ đô, kết hợp với nguồn lực của cả nước và nguồn lực quốc tế nhằm xây dựng Thủ đô thành thành phố kết nối toàn cầu, có có trình độ phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới./.
Để phát huy hiệu quả nguồn lực FDI tại Hà Nội theo hướng bền vững  (06/11/2024)
Thành phố Hà Nội nâng cao chất lượng dân số vì sự phát triển bền vững  (05/11/2024)
Đổi mới mô hình tăng trưởng tại huyện Sóc Sơn  (03/11/2024)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên