TCCSĐT - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phản ánh một trong những xu thế lớn của thời đại, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các khía cạnh của đời sống của các quốc gia, góp phần định hình xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam, tuy là quốc gia có trình độ phát triển trung bình về khoa học công nghệ nhưng không thể thụ động đứng ngoài xu thế đó mà cần chủ động, tích cực chuẩn bị các điều kiện để nắm bắt, tiếp cận với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

1. Giới nghiên cứu quốc tế đưa ra các định nghĩa khác nhau và bàn luận nhiều về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó, đáng chú ý là quan niệm của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Theo đó, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ sự dung hợp của các công nghệ và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số hóa, sinh học,... Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra trong bối cảnh internet ngày càng phát triển, phổ biến, tính di động cao, các bộ cảm biến nhỏ, nhẹ nhưng công suất mạnh với giá thành ngày càng rẻ. Các công nghệ số với phần cứng, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và đang làm biến đổi các xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Cùng với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo, công nghệ đã và đang tạo ra một thế giới mà trong đó có các hệ thống ảo và vật lý của chuỗi sản xuất trên toàn cầu có thể kết hợp với nhau một cách linh hoạt, cho phép sản xuất theo yêu cầu khách hàng. Các công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên diện rộng được khuếch tán nhanh và rộng rãi hơn so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. Đặc điểm của nó là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan toả của số hoá và công nghệ thông tin. Làn sóng công nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới, đang tạo ra tác động mạnh mẽ, ngày một gia tăng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. Internet, điện thoại thông minh và hàng nghìn các ứng dụng công nghệ khác đang làm cho cuộc sống của con người trở nên dễ dàng hơn và năng suất lao động cao hơn. Nhìn chung, tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra với tốc độ nhanh, phạm vi bao phủ rộng, từ lĩnh vực sản xuất đến đời sống, từ hoạt động của mỗi cá nhân đến các tổ chức, doanh nghiệp và của cả chính phủ, các bộ, ngành,… Xe không người lái, nhà máy thông minh, chính phủ điện tử,… là những ví dụ về tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

2. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phản ánh một trong những xu thế lớn của thời đại, đã và đang góp phần định hình thế giới. Việt Nam, tuy là quốc gia có trình độ phát triển trung bình về khoa học công nghệ nhưng không thể thụ động đứng ngoài xu thế đó mà cần chủ động, tích cực chuẩn bị các điều kiện để nắm bắt, tiếp cận với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sự chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế ngày càng sâu hơn, rộng hơn thời gian qua là điều kiện thuận lợi để chúng ta nắm bắt, tiếp cận sự lan tỏa của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Nhận thức rõ xu hướng thời đại và vai trò của khoa học, công nghệ, Đảng, Nhà nước thời gian qua luôn quan tâm phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, coi khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp nhằm giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn. Tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 04-5-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với Việt Nam. Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng và nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06-02-2017, số 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 và số 36a/NQ-CP ngày 14-10-2015 của Chính phủ nhằm cải thiện môi trường cạnh tranh, kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ sản xuất mới. Các bộ, ngành khẩn trương triển khai xây dựng chính phủ điện tử; tiếp tục chủ động rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; sửa đổi các quy định quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng đơn giản hóa và hiện đại hoá thủ tục hành chính.

Bên cạnh đó, cần rà soát lại các chiến lược, chương trình hành động, đề xuất xây dựng kế hoạch và các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai phù hợp với xu thế phát triển của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tập trung xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh,... Rà soát, lựa chọn phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm cạnh tranh chiến lược của quốc gia bám sát các công nghệ sản xuất mới, tích hợp những công nghệ mới để tập trung đầu tư phát triển.

Đồng thời, tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như: Có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; có chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác. Tiếp tục rà soát, thực hiện chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam.

Bộ Khoa học và Công nghệ cần phát huy vai trò chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan kết nối các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, tập trung thực hiện có hiệu quả các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia về Toán học, Vật lý, Khoa học cơ bản; các chương trình Đổi mới công nghệ, Phát triển công nghệ cao, Sản phẩm quốc gia, Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp, Sở hữu trí tuệ, Công nghiệp sinh học…

Cần tập trung đầu tư cho những ngành mũi nhọn trọng điểm của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hoá, năng lượng mới, vật liệu mới, nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng... Đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoạt động của các khu công nghệ cao đang hình thành ở nước ta (Hoà Lạc, Thành phố Hồ Chí Minh); chủ động tham gia vào quá trình hoạt động của các khu công nghệ cao, các công viên phần mềm… là giải pháp chiến lược có hiệu quả thiết thực để sớm tiếp cận với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang hình thành và phát triển mạnh trên thế giới. Từng bước xây dựng và phát triển các thành phố thông minh, đi đầu là các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương; giải quyết những bức xúc xã hội về giao thông, y tế, an toàn thực phẩm, an ninh trật tự, đem lại môi trường sống văn minh, hiện đại, nâng cao chất cuộc sống cho người dân.

Tăng cường thông tin, truyền thông về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những yêu cầu, thách thức đặt ra để định hướng dư luận, giúp cho các tổ chức và người dân có nhận thức đúng về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thúc đẩy khởi nghiệp dựa trên đổi mới sáng tạo, đưa Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp là con đường nhanh nhất để phát triển lực lượng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ cao, tạo những nhân tố phát triển đột phá trong nền kinh tế số. Tập trung xây dựng, thúc đẩy các hoạt động ứng dụng, nghiên cứu phát triển, chuyển giao các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3. Một trong những điều kiện nền tảng để tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là hạ tầng công nghệ thông tin. Vì vậy, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu mang tính tiên quyết.

Bộ Thông tin và Truyền thông cần có chiến lược, kế hoạch thúc đẩy phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới. Tập trung đầu tư trước một bước phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin trong hoạt động của các ngành, các cấp, xây dựng chính phủ điện tử. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công nghệ thông tin - truyền thông trong phạm vi cả nước, bảo đảm an toàn, đồng bộ, kết nối liên ngành và liên vùng. Hạ tầng thông tin băng rộng phải đi đến tất cả mọi ngõ ngách, đến tận vùng núi, hải đảo, vùng nông thôn. Trong đó, các doanh nghiệp viễn thông chú trọng hoàn thiện mạng truyền thông di động 4G, bảo đảm sớm cung cấp dịch vụ ổn định trong toàn quốc; có chính sách tiếp cận, nghiên cứu và phát triển mạng 5G, đáp ứng yêu cầu internet kết nối vạn vật trong thời gian sớm nhất. Phát triển một số lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm về công nghiệp công nghệ thông tin - truyền thông có vai trò then chốt trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Quan tâm phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin nhằm tạo phương thức phát triển mới, nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia, toàn xã hội, xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công, xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và vì người dân. Trên cơ sở đó, thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo khoa học - công nghệ trong mọi ngành, lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; đầu tư nâng cao năng lực tiếp thu và làm chủ công nghệ, nhất là các công nghệ mới theo xu hướng của cuộc cách mạng số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam thành trung tâm công nghiệp phần mềm, ứng dụng di động và trung tâm dịch vụ an toàn bảo mật thông tin của thế giới.

Ưu tiên, chú trọng phát triển nhân lực công nghệ thông tin, đặc biệt là nhân lực về an toàn, an ninh thông tin. Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin, tăng nhanh về số lượng và chất lượng đạt chuẩn quốc tế, bắt kịp với các xu hướng công nghệ. Tập trung “xóa mù” về tri thức công nghệ để sao cho trong thời gian ngắn nhất mọi người dân Việt Nam phải được trang bị những kiến thức, tri thức cần thiết về công nghệ thông tin và Việt Nam phấn đấu trở thành một trong những trung tâm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế số thế giới.

Để đào tạo nguồn nhân lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó có nguồn nhân lực công nghệ thông tin, cần thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học, dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù, qua đó, biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế.

Đổi mới đào tạo, dạy nghề trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu, làm chủ và khai thác vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của Cách mạng công nghiệp thứ tư; đồng thời, nghiên cứu, đề xuất các chính sách, giải pháp khắc phục, giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tới cơ cấu thị trường lao động, an sinh xã hội./.