Xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn vững mạnh, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
1- Xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn (CBCĐ) nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước là cần thiết khách quan và là yêu cầu cấp bách đặt ra cho tổ chức công đoàn Việt Nam, đồng thời cũng chính là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay, với những lý do như sau:
- Quá trình đổi mới đang đặt ra những yêu cầu bức xúc, đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện và tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị nước ta. Điều này đòi hỏi các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức công đoàn, không ngừng đổi mới tổ chức hoạt động, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của mình, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Để công đoàn không ngừng đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới cần phải xây dựng đội ngũ CBCĐ đủ về số lượng, bảo đảm về trình độ, năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
- Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự chuyển biến quan trọng, phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và có sự phân hóa về trình độ, mức sống cũng như môi trường, điều kiện làm việc. Để công đoàn thực sự là trung tâm đoàn kết, giáo dục công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ) và luôn thực hiện tốt các chức năng cơ bản của mình, thì việc xây dựng đội ngũ CBCĐ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là yếu tố cơ bản quyết định bảo đảm cho tổ chức công đoàn thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình.
- Các mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường đang hằng ngày, hằng giờ tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội nước ta, tác động trực tiếp đến giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn nói chung, đến đội ngũ CBCĐ nói riêng. Cùng với đó, khoa học, kỹ thuật, công nghệ đang phát triển như vũ bão, thúc đẩy thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế và trang thiết bị sản xuất. Những tác động đó đòi hỏi đội ngũ CBCĐ phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; không ngừng nâng cao năng lực, trình độ để đủ khả năng tiếp cận được với khoa học, công nghệ hiện đại, tiên tiến.
- Thực trạng năng lực của đội ngũ CBCĐ nước ta, nhất là cán bộ cơ sở, cán bộ ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn có hạn chế nhất định. Còn có công đoàn cơ sở hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa đại diện, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ; tình trạng vi phạm quyền và lợi ích của công nhân, lao động còn diễn ra nhiều. Chính những điều đó cũng đang khách quan đặt ra cho cho tổ chức công đoàn Việt Nam phải xây dựng đội ngũ CBCĐ chuyên trách có bản lĩnh để bảo vệ công nhân, người lao động.
Nhìn chung, đội ngũ CBCĐ đã thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức tự chủ, tự lực tự cường, năng động và sáng tạo; có kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, trưởng thành trong phong trào công nhân và công tác công đoàn, thích nghi nhanh với hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là trong đội ngũ CBCĐ hiện nay đang có hạn chế về năng lực; kiến thức, trình độ hiểu biết về lý luận và thực tiễn của nhiều cán bộ công đoàn chưa theo kịp yêu cầu tình hình mới hiện nay; tư tưởng hành chính hóa hoạt động công đoàn còn có trong tư duy của không ít CBCĐ,...
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức công đoàn trong thời gian tới, mục tiêu cơ bản về xây dựng đội ngũ CBCĐ được đặt ra như sau:
Một là, xây dựng đội ngũ CBCĐ có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu để bảo đảm hoàn thành tốt các nhiệm vụ công đoàn trong thời kỳ mới, bảo đảm đủ nguồn cán bộ cho mỗi kỳ đại hội công đoàn các cấp.
Hai là, từng bước nâng cao chất lượng CBCĐ về mọi mặt, đặc biệt là về trình độ chuyên môn công tác công đoàn và kỹ năng hoạt động công đoàn, bảo đảm CBCĐ có đủ tầm đáp ứng yêu cầu của Đảng, của công đoàn trong giai đoạn cách mạng mới.
Ba là, xây dựng đội ngũ CBCĐ bảo đảm chất lượng toàn diện, vừa có kiến thức rộng và sâu, vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có hiểu biết về giai cấp công nhân, công đoàn và pháp luật; có khả năng nhạy bén xử lý nhanh các thông tin; thấu hiểu tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của CNVCLĐ; biết tổ chức, tập hợp, lôi cuốn quần chúng tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn Việt Nam.
2- Để xây dựng đội ngũ CBCĐ vững mạnh, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản sau đây:
Trước hết, các cấp ủy đảng, chính quyền, công đoàn các cấp và đội ngũ CBCĐ cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CBCĐ.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động được cải thiện, nhận thức chính trị - xã hội của họ không ngừng được nâng lên, trình độ tay nghề của người lao động công nghiệp ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, đa dạng hóa hình thức sở hữu làm cho quan hệ lao động ngày càng phức tạp. Xu thế hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động càng trở nên khó khăn và cấp thiết. Bối cảnh trên đặt ra cho tổ chức công đoàn nhiệm vụ hết sức nặng nề. Hoạt động của công đoàn vừa phải thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, vừa phải góp phần tích cực xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Để thực hiện được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, công đoàn các cấp, toàn thể cán bộ, CNVCLĐ cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng của CBCĐ đối với phong trào công nhân lao động và hoạt động công đoàn. CBCĐ là cán bộ của tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân - giai cấp đóng vai trò quyết định phương hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong quan hệ lao động, công đoàn và CBCĐ có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Từ đó, các cấp ủy quan tâm hơn đến công tác CBCĐ, chú trọng lãnh đạo công đoàn xây dựng, hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và có chính sách đãi ngộ CBCĐ một cách tương xứng với cống hiến của họ. Đồng thời, các cấp ủy lãnh đạo công đoàn xây dựng, thực hiện chiến lược CBCĐ, nhằm xây dựng đội ngũ này ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu phong trào công nhân và hoạt động công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; góp phần tích cực vào việc thực hiện chiến lược cán bộ của Đảng trong tình hình mới.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy về xây dựng đội ngũ CBCĐ.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo về công tác cán bộ; gắn với phát huy trách nhiệm của tổ chức công đoàn và người đứng đầu của tổ chức công đoàn trong công tác cán bộ; tránh bao biện, làm thay, can thiệp quá sâu vào công tác tổ chức cán bộ của công đoàn. Xây dựng tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài làm cơ sở cho công tác quy hoạch, đào tạo CBCĐ.
- Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên với cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Các cấp ủy cần quan tâm xây dựng đội ngũ CBCĐ có chất lượng, chú trọng ngay từ khâu tạo nguồn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và cả chăm lo đến đời sống vật chất cũng như tinh thần cho đội ngũ này.
Thứ ba, các cấp công đoàn cần thực hiện tốt các nội dung, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ CBCĐ với những nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng tiêu chuẩn CBCĐ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Về tiêu chuẩn CBCĐ, xuất phát từ đặc điểm đội ngũ này là cán bộ quần chúng, hoạt động trong tổ chức công đoàn, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản là đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ; tham gia quản lý kinh tế, xã hội và tuyên truyền giáo dục CNVCLĐ. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra tiêu chuẩn cán bộ công đoàn: “... là người hiểu biết sản xuất, nguyện vọng của công nhân, viên chức, phải hiểu chính sách của Đảng, phải hiểu về quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật”, Người còn cụ thể hóa tiêu chuẩn CBCĐ và nhấn mạnh: “cán bộ công đoàn chẳng những phải giỏi về chính trị, mà còn phải thạo về kinh tế, không thể lãnh đạo chung chung. Phải biết dựa vào quần chúng, phát huy sức sáng tạo của quần chúng, học tập kinh nghiệm của quần chúng, tạo điều kiện cho họ nắm được những hiểu biết khoa học, kỹ thuật. Nếu cán bộ công đoàn không hiểu việc họ làm, không hiểu bằng họ, thì làm sao mà lãnh đạo được”(1). Từ đó, các cấp công đoàn tham mưu với Đảng, đưa ra những tiêu chuẩn phù hợp với từng chức danh CBCĐ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Công tác đánh giá CBCĐ phải thực hiện một cách khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, theo tiêu chuẩn, có nội dung và phương pháp đúng đắn; hết sức tránh tình trạng cảm tính của người đánh giá. Đánh giá đúng ưu điểm, mặt được sẽ có tác dụng động viên, thúc đẩy cán bộ phấn đấu. Nói đúng khuyết điểm, nhược điểm sẽ có tác dụng răn đe, ngăn chặn, chỉnh sửa.
Đối với CBCĐ, trong khả năng hành động còn phải xem đến khả năng tổ chức, vận động, tập hợp, thuyết phục CNVCLĐ vào hoạt động công đoàn.
- Công tác quy hoạch cán bộ phải có chiến lược khoa học, chi tiết cụ thể. Công đoàn các cấp cần nhận thức rõ tính đặc thù của CBCĐ là cán bộ của quần chúng, hoạt động vì lợi ích của CNVCLĐ và do đoàn viên bầu lên. Công tác quy hoạch cán bộ phải được chú trọng thực hiện thường xuyên và đồng bộ ở tất cả các cấp công đoàn trên các mặt: tạo nguồn cán bộ; tuyển chọn cán bộ (cần dựa vào tiêu chuẩn CBCĐ từng cấp, từng chức danh) và xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch cán bộ.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và trình độ cho CBCĐ là vấn đề hết sức quan trọng, có vai trò quyết định đến nâng cao năng lực của họ. Công tác đào tạo CBCĐ bao gồm việc tổ chức, giảng dạy và học tập dài ngày, gắn giữa việc giáo dục nhân cách với cung cấp kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ nhằm chuẩn bị cho người học có khả năng đảm nhận công việc nhất định. Bồi dưỡng CBCĐ là trang bị, tăng cường thêm kiến thức, truyền đạt kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động thực tiễn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tâm lý, tác phong công tác của họ.
Chú trọng đa dạng hóa hình thức đào tạo để mọi cán bộ có cơ hội, điều kiện được đào tạo. Đối với cán bộ trẻ, cán bộ tầm chiến lược cần được đào tạo cơ bản, tập trung ở nhiều cấp đào tạo (đại học và trên đại học) nhằm trang bị cho họ một cách hệ thống và tương đối toàn diện những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chuyên sâu kết hợp với nâng cao sự tự tu dưỡng đạo đức, lối sống, tự trang bị các kiến thức lý luận chính trị, pháp luật.
Đối với CBCĐ chuyên trách, cần phải đào tạo cơ bản, dài hạn để trang bị cho họ một cách hệ thống những kiến thức phục vụ cho công đoàn; định kỳ tham gia tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế để nâng cao năng lực. Do đặc thù của CBCĐ chủ yếu là không chuyên trách (kiêm nhiệm) và thường thay đổi sau mỗi nhiệm kỳ, nên các cấp công đoàn cần coi công tác bồi dưỡng cán bộ là giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ.
Đào tạo CBCĐ cho những năm tới sẽ căn cứ vào sự phát triển của tổ chức, nhu cầu cán bộ, quy hoạch cán bộ, vào công tác chuẩn bị cán bộ chủ chốt, dự nguồn trong các kỳ đại hội. Phải phân loại cán bộ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ để có hình thức đào tạo thích hợp. Tăng cường mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ ngắn ngày, tạo điều kiện cho tất cả CBCĐ không chuyên trách từ ủy viên ban chấp hành công đoàn cơ sở trở lên, nhất là cán bộ mới tham gia hoạt động ban chấp hành công đoàn lần đầu, đều được tập huấn hằng năm về phương pháp hoạt động công đoàn. Hằng năm, các cấp công đoàn phải có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ CBCĐ các cấp, nhất là cán bộ chuyên trách cả về nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.
Các cấp công đoàn cần củng cố, tăng cường tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo CBCĐ trong toàn hệ thống. Các liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành Trung ương cần bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tăng cường hình thức bồi dưỡng tại cơ sở. Có kế hoạch đầu tư và nâng cao chất lượng các trường công đoàn hiện có để trở thành các trường chuyên ngành mạnh đào tạo CBCĐ. Nâng cao chất lượng giảng viên, nhất là giảng viên ngành công đoàn. Nâng cao chất lượng dạy và học, năng lực của các trường công đoàn, nhất là Trường Đại học Công đoàn và Trường Đại học Tôn Đức Thắng, xứng đáng với vai trò là các trường đại học đa ngành, trong đó đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học công đoàn và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác cho cán bộ lãnh đạo công đoàn các cấp.
Tổ chức xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức là những CBCĐ có trình độ và kinh nghiệm đang hoạt động công đoàn ở cơ quan Tổng Liên đoàn, các liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành Trung ương để làm công tác tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động công đoàn.
Đưa vào nền nếp công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch, chế độ báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCĐ, đánh giá việc sử dụng cán bộ sau đào tạo hằng năm ở các liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành Trung ương. Hằng năm phải có kế hoạch tăng cường nguồn lực, đầu tư khoảng 15% tổng chi ngân sách công đoàn ở mỗi cấp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí cho đào tạo CBCĐ của các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức công đoàn quốc tế.
- Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho CBCĐ rèn luyện, thử thách, phát triển, phấn đấu vươn lên. Đối với CBCĐ, việc luân chuyển cần phải thật cụ thể, rõ ràng, công khai và chủ động, tránh gây xáo trộn lớn ảnh hưởng xấu đến phong trào công nhân và hoạt động công đoàn. Phương thức luân chuyển cán bộ phải đa dạng, kết hợp chặt chẽ với công tác đánh giá, quy hoạch và đào tạo cán bộ.
Để công tác quản lý CBCĐ có hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực, uy tín của cán bộ, cần tiến hành kiểm tra, giám sát từ hai phía: từ phía lãnh đạo quản lý (cấp ủy, thủ trưởng), ban thường vụ, ban chấp hành công đoàn và từ phía đoàn viên, CNVCLĐ. Trong công tác quản lý CBCĐ, cần coi trọng việc tự đánh giá, quản lý của chính mỗi người cán bộ. Do vậy, các cấp công đoàn cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, coi đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý cán bộ.
Thực hiện tốt các chế độ, chính sách khuyến khích lợi ích, động viên tinh thần đối với CBCĐ. Các cấp công đoàn cần bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ chính sách chung cho cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý của mình, đồng thời có các chế độ đãi ngộ thích hợp cho CBCĐ trong tình hình cụ thể để khuyến khích và tạo điều kiện cho họ hoạt động.
Tổ chức công đoàn phải chủ động xây dựng, hoàn thiện chế độ, chính sách bảo vệ, đãi ngộ CBCĐ, trước hết là cán bộ chuyên trách, theo các nguyên tắc cơ bản sau: Chế độ, chính sách đối với CBCĐ phải trên cơ sở chế độ, chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước; bảo đảm hài hoà và không mâu thuẫn với chế độ, chính sách của các loại cán bộ khác; bảo đảm quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, hiệu quả công tác; khuyến khích cả vật chất lẫn tinh thần tạo điều kiện, cơ hội cho mọi người được làm việc, cống hiến và thể hiện năng lực nhằm kích thích tính sáng tạo, có sức hấp dẫn lôi cuốn mọi người nỗ lực phấn đấu vươn lên./.
-----------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 12, tr. 569
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm, tặng quà các trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh  (17/07/2013)
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải làm việc tại Nghệ An  (17/07/2013)
"Ninh Bình cần có định hướng phát triển công nghiệp"  (17/07/2013)
Phiên họp thứ 52 Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương  (17/07/2013)
"Phải kiên trì, quyết liệt phòng, chống tham nhũng"  (17/07/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên