Hệ thống - cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Hiện trạng và những tác động
TCCS - Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương với tư cách là một hệ thống quốc tế đang trở thành khu vực địa chiến lược cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc. Những biến động của hệ thống - cấu trúc khu vực được đánh giá sẽ tác động đến thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nắm bắt được bản chất của cấu trúc khu vực, nhận diện chính sách của các nước lớn, đánh giá đúng thế và lực quốc gia sẽ giúp có những chọn lựa chính sách phù hợp với những diễn biến của thời cuộc.
Từ cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc trong quan hệ quốc tế...
Theo xu thế chung trong lịch sử, do lợi ích phát triển, các quốc gia ngày càng mở rộng quan hệ với bên ngoài. Sự phát triển này diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau như số lượng và loại hình chủ thể tham gia, số lượng và quy mô tương tác, tần suất và mức độ quan hệ, vấn đề và lĩnh vực quan hệ. Khi quan hệ quốc tế phát triển đến mức độ nào đó, hệ thống quốc tế sẽ được hình thành. Theo đó, “hệ thống quốc tế là tổng hợp các chủ thể quan hệ quốc tế và sự tương tác lẫn nhau giữa chúng được cấu trúc theo những luật lệ và mẫu hình nhất định”(1). Lúc này, với tư cách là môi trường bên ngoài, hệ thống quốc tế sẽ có tác động tới các quốc gia trong hệ thống và tới các mối quan hệ. Hệ thống quốc tế càng phát triển, những tác động đối với quốc gia và quan hệ quốc tế sẽ ngày càng lớn.
Trong hệ thống luôn có cấu trúc - bộ phận được coi là quan trọng nhất của hệ thống. Cấu trúc trong quan hệ quốc tế có ba phương diện chính, đó là sự phân bố quyền lực, mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung. Trong đó, sự phân bố quyền lực hay tương quan so sánh quyền lực trên quy mô hệ thống là quan trọng nhất. Điều này được quy định bởi vai trò của quyền lực trong quan hệ quốc tế. Các nước có quyền lực lớn hơn đều muốn đề ra những luật lệ, thúc đẩy các mẫu hình quan hệ có lợi cho mình để bảo đảm lợi ích và nâng cao vị thế trong hệ thống - cấu trúc. Quyền lực trong cấu trúc không chỉ giúp các nước này có tiếng nói lớn hơn mà còn giúp đem lại khả năng thực thi các mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung. Vai trò của sự phân bố quyền lực như phương diện chính của cấu trúc dẫn đến sự quan tâm chủ yếu đến cấu trúc quyền lực và sự phân loại thành cấu trúc đơn cực, hai cực và đa cực. Trong đó, cực là để chỉ những trung tâm quyền lực trong hệ thống - cấu trúc quốc tế.
Cấu trúc có sự vận động và hoàn toàn có thể thay đổi. Sự vận động của cấu trúc có thể thấy được qua sự chuyển dịch trong phân bố quyền lực do quy luật phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, trong đấu tranh và hợp tác để thay đổi các mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung, trong những biến đổi của các xu hướng lớn. Cấu trúc có thể biến mất khi có sự thay đổi lớn trong phân bố quyền lực. Khi cấu trúc cũ không còn nữa thì hệ thống quốc tế cũng thay đổi và xuất hiện cấu trúc mới. Cùng với đó, mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung cũng thay đổi theo.
Biểu hiện đậm nét của sự vận động cấu trúc chính là một số xu hướng lớn trong quan hệ quốc tế. Các xu hướng này thường được khởi phát và thúc đẩy bởi các cường quốc, tức là từ sự phân bố quyền lực. Trong các xu hướng cũng luôn có những mẫu hình quan hệ và luật lệ nào đó được coi là phù hợp với xu hướng. Khi các xu hướng này càng phát triển, những mẫu hình quan hệ và luật lệ đó ngày càng trở nên phổ biến trong hệ thống quốc tế. Đến thời hiện đại, đã có thêm sự tham gia ngày càng nhiều của các nước vừa và nhỏ. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, kinh tế tri thức... là những xu hướng như vậy của hệ thống - cấu trúc hiện đại.
Như vậy, cấu trúc là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống. Cấu trúc tạo ra nhiều tác động đối với hệ thống quốc tế nói riêng, đối với quan hệ quốc tế nói chung. Thứ nhất, sự tồn tại của cấu trúc sẽ tạo ra áp lực, lôi kéo và kết nối các chủ thể quan hệ quốc tế vào trong hệ thống. Qua đó, cấu trúc giúp hệ thống quốc tế được mở rộng và phát triển. Thứ hai, cấu trúc tạo ra sự sắp xếp trong hệ thống mà thường theo thứ bậc quyền lực. Sự phân tầng trên dưới của cấu trúc đem lại tính tổ chức nhất định trong hệ thống và trong quan hệ quốc tế. Thứ ba, cấu trúc được hình thành dựa trên nguyên tắc trật tự(2). Do đó, cấu trúc giúp hệ thống quốc tế và quan hệ quốc tế được ổn định hơn. Thứ tư, cấu trúc gồm cả mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung nên giúp thể chế hóa và hạn chế tình trạng vô chính phủ trong quan hệ quốc tế. Thứ năm, trong hệ thống quốc tế, quan hệ quốc tế luôn chịu tác động từ cấu trúc. Vì thế, các chủ thể quan hệ quốc tế buộc phải tính toán và hành động để có sự phù hợp tương đối với cấu trúc. Thứ sáu, cấu trúc là cơ sở quan trọng giúp thúc đẩy các xu hướng trong quan hệ quốc tế. Thứ bảy, sự thay đổi cấu trúc đến mức độ nào đó hoàn toàn có khả năng dẫn đến sự thay đổi hệ thống quốc tế và từ đó là toàn bộ quan hệ quốc tế trong hệ thống.
Không chỉ có vậy, cấu trúc quốc tế không chỉ là tác động bên ngoài mà còn có thể giúp nâng cao nội lực quốc gia. Từ khi xuất hiện hệ thống quốc tế, sức mạnh tổng hợp của quốc gia không chỉ bao gồm những thành tố bên trong quốc gia (quân sự, kinh tế, khoa học, công nghệ, địa lý, dân số, các yếu tố tinh thần)(3) mà còn gồm cả các nguồn lực từ hệ thống - cấu trúc, như sự ủng hộ quốc tế, các nguồn lực bên ngoài, các luật lệ có lợi cho thực hiện lợi ích, khả năng kiềm chế những hành vi bất lợi từ nước khác... Vì thế, các nước đều tìm cách mở rộng quan hệ quốc tế để tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài nhằm nâng cao vị thế và ảnh hưởng trong hệ thống - cấu trúc quốc tế. Đối với các cường quốc hàng đầu, vị thế quốc tế lớn nhất chính là việc có được quyền lực cấu trúc. Đối với các nước vừa và nhỏ, thường chỉ là từng bước nâng cao vị thế quốc tế của mình trong cấu trúc. Vị thế quốc tế này được dựa trên thực lực, vị trí cao hay thấp trong phân bố quyền lực và sự thừa nhận của các nước khác.
Sự tồn tại hệ thống - cấu trúc là nguyên nhân gây ra hàng loạt vấn đề trong quan hệ quốc tế. Cạnh tranh giữa các cường quốc không còn đơn giản chỉ là tạo ra ưu thế quyền lực mà còn cả tranh giành quyền lực trong cấu trúc. Cấu trúc tạo ra trật tự quốc tế theo kiểu tầng trên - tầng dưới hay trung tâm - ngoại vi và từ đó là những bất lợi có tính cấu trúc cho các nước nhỏ. Hệ thống - cấu trúc cũng thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng kèm theo đó là sự phụ thuộc bất tương xứng với khoảng cách giàu - nghèo gia tăng. Các nước lớn chi phối các định chế và luật lệ quốc tế, từ đó tạo sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Các xu hướng đem lại lợi ích cho các nước lớn nhiều hơn là cho các nước nhỏ. Trong chừng mực nào đó, cấu trúc cũng đem lại sự giới hạn đối với chủ quyền quốc gia, ít nhất trong quan hệ đối ngoại.
Với vai trò trên, cấu trúc chính là nhân tố bên ngoài có khả năng tác động mạnh đến quan hệ quốc tế và các quốc gia. Tác động của cấu trúc không chỉ diễn ra trong các vấn đề đối ngoại mà còn ảnh hưởng ngày càng nhiều đến đời sống nội tại quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, do sự tồn tại của hệ thống - cấu trúc thế giới và khu vực, các quốc gia và quan hệ quốc tế cũng phải chịu thêm nhiều tác động đồng thời của các cấu trúc này. Tương tự như vậy, các quốc gia và quan hệ đối ngoại cũng phải chịu tác động của cấu trúc quốc tế trong các lĩnh vực khác nhau. Sự phức tạp còn tăng lên khi tác động của các cấu trúc này hoàn toàn có thể là giằng chéo, ngược nghịch chứ không phải là cùng hướng. Bên cạnh đó, dù cấu trúc là tương đối ổn định song vẫn có sự vận động của nó. Do đó, cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc cần có sự kết hợp với quan điểm biện chứng nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong sự vận động.
Tuy nhiên, không phải đương nhiên quốc gia sẽ tuân thủ hay nương theo các xu hướng của cấu trúc. Quốc gia độc lập và có chủ quyền vẫn có thể phản ứng hoặc không chấp nhận nếu các tác động từ cấu trúc không có lợi cho mình. Bản thân các nước lớn cũng thường không hài lòng với cấu trúc hiện hành nên cũng có xu hướng tìm cách thay đổi cấu trúc về phương diện nào đó. Điều này thể hiện rõ nhất khi sự phân bố quyền lực có xu hướng chuyển dịch hay tương quan so sánh quyền lực thay đổi. Tất cả những điều này khiến cấu trúc vận động và có thể thay đổi.
... đến nhận diện cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hiện nay
Trên cơ sở tiếp cận ý nghĩa hệ thống - cấu trúc trong quan hệ quốc tế, để phân tích hiện trạng cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương theo từng lĩnh vực, cần làm rõ: Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có phải là một hệ thống khu vực hay không. Trước kia, khi coi khu vực châu Á - Thái Bình Dương là một hệ thống đã bao gồm cả Ấn Độ; trong khi đó, sự gắn kết giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cũng đã tồn tại từ lâu. Ngoài ra, trong những năm qua, mối liên hệ giữa châu Á - Thái Bình Dương với Nam Á ngày càng tăng. Hiện nay, các cường quốc đều đã xây dựng chiến lược tiếp cận Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương như một tổng thể. Việc gần đây các nước nói nhiều đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được hiểu là sự công nhận thực tế tính hệ thống của khu vực này.
Như vậy, để đánh giá cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hiện nay, trước hết tiếp cận từ cấu trúc an ninh - chính trị. Trong cấu trúc an ninh - chính trị, sự sắp xếp trong phân bố quyền lực dựa trên tương quan so sánh sức mạnh tổng hợp quốc gia giữa các nước trong hệ thống. Tuy nhiên, sức mạnh tổng hợp của quốc gia không đơn thuần chỉ dựa vào các thành tố có tính nội tại mà còn phải tính đến những nguồn lực mà quốc gia có được từ hệ thống - cấu trúc.
Trong sự phân bố quyền lực này, Mỹ vẫn là nước đứng đầu. Xét trên cấp độ quốc gia, Mỹ có những ưu thế vượt trội đáng kể trong ba thành tố cơ bản của sức mạnh tổng hợp quốc gia, đó là quân sự, kinh tế và khoa học - công nghệ. Trên cấp độ hệ thống, Mỹ có ưu thế hơn các cường quốc khác với mạng lưới đồng minh trong khu vực. Chưa kể, Mỹ còn có thêm sự “tiếp sức” từ hệ thống - cấu trúc toàn cầu mà Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là một bộ phận. Đứng thứ hai là Trung Quốc. Trung Quốc có ưu thế lớn nhất là dân số đông và những lợi thế địa lý ngay trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc có sự trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế để chuyển hóa thành sức mạnh quân sự, chính trị và khoa học - công nghệ. Sau Mỹ và Trung Quốc là Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Hàn Quốc hay nhóm nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, trên cấp độ hệ thống, không một nước nào trong số này có được ảnh hưởng và những ưu thế trong hệ thống - cấu trúc khu vực như Mỹ và Trung Quốc.
Sự vận động đáng chú ý nhất trong phân bố quyền lực của cấu trúc này chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc dẫn đến khoảng cách chênh lệch sức mạnh giữa Mỹ và Trung Quốc dần thu hẹp lại. Khoảng cách này còn bị thu hẹp nhiều hơn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 khi Trung Quốc không bị tác động, ảnh hưởng nhiều, còn Mỹ bị suy yếu tương đối. Với sự chuyển dịch như vậy, cấu trúc an ninh - chính trị khu vực đang có xu hướng chuyển sang hình thái hai cực. Sự thay đổi trong phân bố quyền lực này khiến Trung Quốc trở nên tự tin hơn và mong muốn có vị trí lớn hơn trong cấu trúc khu vực. Từ đó, cạnh tranh quyền lực cấu trúc giữa Trung Quốc và Mỹ đã diễn ra. Cả hai cường quốc đều triển khai những chiến lược lớn, như Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc và Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP) của Mỹ nhằm gia tăng vị thế của mình trong cấu trúc quyền lực khu vực. Cách thức chủ yếu của cả hai chiến lược này là đều tập hợp lực lượng nhằm tạo tương quan có lợi và kiểm soát những vị trí địa chiến lược để có được ưu thế an ninh hoặc ít nhất là ngăn chặn bên kia. Tuy nhiên, có thể thấy, Trung Quốc chú ý đến hệ thống nhiều hơn khi triển khai BRI trên diện rộng nhằm lôi kéo các nước, còn Mỹ quan tâm đến cấu trúc nhiều hơn khi lôi kéo Ấn Độ và hình thành nhóm “Bộ Tứ” (QUAD, bao gồm các nước Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ và Nhật Bản).
Sự cạnh tranh này kéo theo những thay đổi trong mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung. Cạnh tranh trở nên phổ biến hơn bên cạnh hợp tác vốn là mẫu hình chính trong hệ thống - cấu trúc khu vực từ sau Chiến tranh lạnh. Những vận động trên cả ba phương diện của cấu trúc này khiến quan hệ quốc tế khu vực trở nên căng thẳng và phức tạp. Nguy cơ xung đột vì thế mà tăng lên so với giai đoạn trước. Sự tập hợp lực lượng trở nên ráo riết hơn. Dù động thái hiện nay của Mỹ và Trung Quốc đều có sự kiềm chế nhất định và nhằm mục tiêu chủ yếu là ngăn chặn đối phương nhưng cũng không thể loại trừ cạnh tranh sẽ trở nên công khai và gay gắt hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, dù cấu trúc hai cực đang định hình rõ rệt hơn nhưng chính cấu trúc hiện thời đã góp thêm tác động ngăn không cho kịch bản tương tự Chiến tranh lạnh xảy ra trong một vài năm tới. Mức độ chênh lệch quyền lực trong phân bố giữa Mỹ và Trung Quốc chưa đủ tương đương để có thể đối đầu quyết liệt. Xu hướng hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau vẫn đủ mạnh để góp phần kiềm chế cạnh tranh gia tăng thành xung đột quyền lực công khai. Các nước vừa và nhỏ trong khu vực ngày càng bị đặt trước nguy cơ phải “chọn bên” nhưng vẫn có thể có những lựa chọn khác, chẳng hạn như “phòng bị nước đôi” (hedging) mà hiện nay khá nhiều nước trong khu vực đang theo đuổi.
Trong cấu trúc kinh tế, xét trên cấp độ quốc gia, Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất với GDP bình quân đầu người cao. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai nhưng GDP bình quân đầu người vẫn thuộc mức thu nhập trung bình. Nhật Bản cũng là một thế lực kinh tế lớn. Xét trên cấp độ hệ thống, đây là ba thế lực kinh tế có ảnh hưởng vượt trội trong khu vực. Cả ba nước này đều có vị thế lớn trong cấu trúc kinh tế khu vực khi nắm được những thể chế kinh tế lớn trong khu vực. Mỹ và đồng minh có ưu thế trong Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các định chế toàn cầu, như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trung Quốc nắm được Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Cả ba nước này đều có tỷ trọng quan hệ thương mại và dòng đầu tư khá lớn với tất cả các nước trong khu vực, do đó có khả năng tác động đến toàn hệ thống. Trong đó, Mỹ vẫn là nước có kim ngạch thương mại và các dòng đầu tư lớn nhất thế giới, vượt hơn đáng kể so với Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, cán cân so sánh này lại không chênh lệch lớn do sự trỗi dậy kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc. Mức độ phụ thuộc kinh tế đáng kể của các nước trong khu vực vào Trung Quốc đã giúp gia tăng ảnh hưởng của nước này lên hệ thống - cấu trúc kinh tế khu vực. Các nền kinh tế khác như Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a và các nước ASEAN có quy mô kinh tế vừa không bằng, năng lực cạnh tranh hạn chế hơn, vừa không có sức ảnh hưởng trong toàn hệ thống khu vực như ba nước trên(4).
Cũng như cấu trúc an ninh - chính trị, sự vận động chủ yếu trong cấu trúc kinh tế khu vực là sự cạnh tranh kinh tế tăng lên giữa hai nền kinh tế lớn nhất là Mỹ và Trung Quốc. Thực chất sự cạnh tranh này đã diễn ra trước đó nhưng trở nên gay gắt và công khai kể từ khi Mỹ phát động cuộc chiến thương mại năm 2018. Nguyên nhân có tính cấu trúc của sự cạnh tranh này chính là vai trò kinh tế khu vực ngày càng tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đang dựa nhiều vào công cụ kinh tế, như mở rộng đầu tư, thương mại và cho vay để gia tăng ảnh hưởng; quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ nhằm giảm vai trò của đồng USD; thành lập một số định chế kinh tế khu vực để cạnh tranh với Mỹ; đề ra nhiều luật lệ kinh tế mới trong “mô hình đồng thuận Bắc Kinh” và nhất là BRI để mở rộng khu vực ảnh hưởng. Tất cả những điều này đã đe dọa quyền lực cấu trúc của Mỹ trong khu vực. Mỹ đã phản ứng lại bằng chiến lược FOIP với nhiều dự án kinh tế là thành phần của chiến lược.
Như vậy, do sự chuyển dịch đáng kể trong phân bố quyền lực kinh tế nên cạnh tranh tăng lên trong cấu trúc kinh tế khu vực. Kèm theo đó là sự cạnh tranh kinh tế cũng trở nên công khai hơn cùng những luật lệ khác nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này vẫn bị kiềm chế bởi những tác động từ cấu trúc kinh tế khu vực và toàn cầu. Đó là tác động từ mẫu hình quan hệ phổ biến là hợp tác vẫn đem lại lợi ích cho các bên, luật lệ kinh tế vẫn là chung trên thế giới và khu vực nên không dễ thay đổi căn bản. Các quốc gia ở đây vẫn dễ chấp nhận luật chơi kinh tế hơn so với các hệ thống luật ở các lĩnh vực khác(5). Các xu hướng kinh tế lớn như khu vực hóa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế... tuy có chậm lại nhưng vẫn tiếp tục diễn ra và các nước vẫn hưởng lợi từ những quá trình này. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Mỹ - Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống đủ lớn để tạo ra sự ràng buộc lẫn nhau trước những thay đổi lớn.
Trong cấu trúc phi vật chất, sự phân bố phức tạp hơn và mức độ chênh lệch không rõ ràng như hai cấu trúc lĩnh vực trên. Điều này được quy định bởi sự đa dạng văn hóa - xã hội cũng như sức sống mạnh mẽ của các nền văn hóa bản địa trong khu vực. Các giá trị của phương Tây có từ thời kỳ thực dân và được tiếp sức thêm bởi toàn cầu hóa ngày nay. Các giá trị của Trung Quốc có lợi thế về không gian lịch sử và cộng đồng người Hoa đông đảo nên có ảnh hưởng ở Đông Bắc Á và một phần Đông Nam Á. Tương tự như vậy là các giá trị của nền văn minh Ấn Độ hiện diện nhiều ở Nam Á và một phần Đông Nam Á. Các nền văn hóa còn lại tuy có thể ảnh hưởng không lớn bằng nhưng lại có sức sống mạnh mẽ cùng ý thức giữ gìn bản sắc quốc gia được hun đúc bởi nền tảng lịch sử lâu dài. Không những thế, sự đa dạng giá trị ở đây còn tăng thêm không chỉ bởi đến từ nhiều nguồn khác nhau mà còn vì sự tiếp thu, tiếp biến và hỗn dung cũng khác nhau giữa các xã hội. Đối với các xã hội ở đây, sự ảnh hưởng của các giá trị bên ngoài là có nhưng không đến mức lấn át và chi phối. Sự đan xen các giá trị của nhiều nền văn hóa đồng thời tạo ra sự giới hạn phạm vi ảnh hưởng lẫn nhau. Tất cả những điều này khiến cho không có một hệ giá trị nào nổi trội và có khả năng ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Nhìn chung, cấu trúc phi vật chất khu vực này còn khá lỏng lẻo do tính đa hướng của các giá trị và mức độ gắn kết trong lĩnh vực này không cao. Có ba sự vận động đáng chú ý trong cấu trúc này. Sự vận động thứ nhất là dưới tác động của mâu thuẫn Mỹ - Trung Quốc trong hai cấu trúc trên, cạnh tranh giá trị giữa Mỹ và Trung Quốc cũng tăng theo. Trung Quốc đưa ra các giá trị mới như “cộng đồng chung vận mệnh nhân loại”, còn Mỹ tiếp tục dựa vào các giá trị “dân chủ”, “nhân quyền”. Không còn ngấm ngầm như trước, sự cạnh tranh này trở nên công khai. Sự cạnh tranh này không đơn thuần là về giá trị mà còn là cách thức tập hợp lực lượng. Trung Quốc nhấn mạnh các giá trị khu vực để tranh thủ sự ủng hộ của các nước trong khu vực và làm giảm ảnh hưởng của các nước bên ngoài. Còn Mỹ dùng dân chủ, nhân quyền để hạ thấp hình ảnh Trung Quốc và tập hợp lực lượng. Chính trị là động cơ chính nằm đằng sau sự cạnh tranh giá trị này. Sự cạnh tranh giá trị có xu hướng trở thành một phần của cạnh tranh quyền lực cấu trúc trong hệ thống Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Sự vận động thứ hai là nỗ lực của các nước khác trong khu vực. Do sự phân bố quyền lực trong cấu trúc phi vật chất ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương không chênh lệch nhiều như trong cấu trúc an ninh - chính trị và cấu trúc kinh tế, các nước trong khu vực đều có cơ hội để nâng cao vị thế của mình trong cấu trúc phi vật chất khu vực. Các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc đều nỗ lực thúc đẩy ngoại giao công chúng thông qua các giá trị văn hóa - xã hội của mình. Các nước vừa và nhỏ ở Đông Nam Á tập hợp lại để hình thành Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) nhằm xây dựng bản sắc và những giá trị riêng. Sự phổ biến các giá trị này có điểm đáng chú ý là đều tìm kiếm sự hòa hợp với các giá trị chung toàn cầu để có thêm sự ủng hộ từ hệ thống - cấu trúc thế giới.
Sự vận động thứ ba chịu tác động nhiều của đại dịch COVID-19 khi hiện nay, thế giới chứng kiến sự nổi lên của các yếu tố phi vật chất, như trách nhiệm quốc tế, đạo đức, nhân đạo... Sự nhấn mạnh các yếu tố này trong đại dịch COVID-19 đem lại khả năng hình thành nên những chuẩn mực mới trong quan hệ quốc tế ở khu vực và trên thế giới. Quốc gia nào có được những yếu tố phi vật chất đó hoàn toàn có thể mở rộng ảnh hưởng trong hệ thống cũng như có khả năng tác động đến luật chơi trong cấu trúc. Vì thế, các cường quốc trong khu vực đã đẩy mạnh các yếu tố đó để nâng cao ảnh hưởng trong hệ thống thông qua hỗ trợ y tế, ngoại giao khẩu trang, ngoại giao vắc-xin... Trên thực tế, sự đa dạng và xu hướng tăng lên của các yếu tố phi vật chất là xu thế chung của thế giới nhưng lại khá hạn chế ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ít nhất, đại dịch COVID-19 cũng giúp làm tăng những yếu tố này ở đây.
Nói tóm lại, hiện trạng và xu hướng vận động của hệ thống - cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được cho là thể hiện sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong cả ba cấu trúc an ninh - chính trị, kinh tế và phi vật chất với mục tiêu chung là tranh giành quyền lực cấu trúc trong hệ thống - cấu trúc khu vực tổng thể. Sự cạnh tranh này làm gia tăng tình trạng bất ổn trong khu vực. Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương kém ổn định hơn so với các khu vực khác trên thế giới do có nguyên nhân cấu trúc này. Đây là sự biến đổi đáng chú ý nhất của hệ thống - cấu trúc của khu vực này. Trong những năm tới, mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào sự lựa chọn chính sách của Mỹ và Trung Quốc. Dù vậy, sự cạnh tranh vẫn sẽ tiếp tục và tình trạng bất ổn trong khu vực vẫn sẽ kéo dài bởi nguyên nhân cấu trúc không nhanh chóng mất đi. Tuy nhiên, trong hệ thống - cấu trúc khu vực hiện thời, cùng với tác động của hệ thống - cấu trúc thế giới, vẫn có những lực ngăn cản sự cạnh tranh leo thang quá mức để chuyển thành xung đột lớn. Đó là mẫu hình hợp tác và hội nhập quốc tế, vai trò của luật lệ chung, sự nổi lên của kinh tế, yêu cầu hòa bình và an ninh, sự phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, yêu cầu phối hợp quốc tế để đối phó với các vấn đề chung. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia ngày càng chịu tác động từ môi trường bên ngoài. Tác động này càng tăng lên khi các nước đều chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc, sự giao thoa giữa các lĩnh vực đối nội và đối ngoại ngày càng mở rộng cho thấy môi trường quốc tế ảnh hưởng lớn đối với an ninh và phát triển của mọi quốc gia. Thực tiễn này đòi hỏi phải nhận diện hệ thống - cấu trúc khu vực và thế giới, trong đó có khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, cùng các tác động để có những đối sách phù hợp./.
-----------------
(1) Xem thêm: Hoàng Khắc Nam: “Nhận thức về hệ thống quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 8 (160), 2009, tr. 3 – 13
(2) Kenneth N. Waltz: Theory of International Politics, Addison - Wesley Publishing Company, 1979, tr. 100
(3) Xem thêm: Hoàng Khắc Nam: Quyền lực trong quan hệ quốc tế: Lịch sử và vấn đề, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2011
(4) Về số liệu chứng minh cho các nội dung kinh tế này, xin tham khảo thêm: Hoàng Khắc Nam (chủ biên): Cấu trúc khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020
(5) World Trade Organization: “Disputes by member”,www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/dispu_by_ country_e.htm
Quan hệ Liên minh châu Âu - Nhật Bản: Điểm hội tụ lợi ích Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương  (03/08/2021)
Vai trò của Ấn Độ đối với sự định hình cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương  (05/06/2021)
Chiến lược của Pháp tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương  (15/03/2021)
Một số xu hướng chuyển dịch trật tự kinh tế thế giới hiện nay  (19/02/2021)
Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Tầm nhìn và thực tiễn  (15/12/2020)
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm