Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
TCCS - Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (28-6-1972 - 16-9-1972) là một trong những biểu hiện sinh động nhất cho khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại.
Là địa đầu của hai chiến tuyến, tỉnh Quảng Trị nói chung, thị xã Quảng Trị, đặc biệt là Thành cổ nói riêng trở thành nơi tập trung sự quan tâm đặc biệt cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị “với phương thức tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược trong thời điểm có tính nhạy cảm, với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau nhiều cả về số quân, trang bị vũ khí hiện đại, phương tiện vật chất trong một thời gian dài, là một thành công đặc biệt xuất sắc”(1). Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm giữ vững Thành cổ trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, mở đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định lòng yêu nước nhiệt thành, sự hy sinh cao cả cho chính nghĩa, vì sự nghiệp vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Kiên cường chiến đấu với tương quan lực lượng chênh lệch
Sau khi để mất Quảng Trị, Tổng thống Mỹ Ních-xơn một mặt ra lệnh cho Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải chiếm lại tỉnh Quảng Trị, một mặt “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh để cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang có nguy cơ sụp đổ. Để ngăn chặn quân ta phát triển tiến công vào phía nam, chính quyền Sài Gòn lập tức tăng quân và hỏa lực, nhanh chóng củng cố tuyến phòng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Đồng thời, lập tuyến phòng ngự phía tây đường 12 để ngăn chặn quân ta tiến công vào Huế nhằm bảo toàn lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc phản công lại ở Quảng Trị. Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, để chắc thắng, Nguyễn Văn Thiệu đã huy động lực lượng tham gia chiến dịch mạnh nhất. Lực lượng phản công gồm: 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, sư đoàn 1 bộ binh, trung đoàn 4 thuộc sư đoàn 2 bộ binh. “Tổng lực lượng gồm 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị công binh, không quân, hải quân của quân khu 1 hỗ trợ”(2). Đặc biệt, Mỹ tăng gấp 2 lần số máy bay ném bom chiến lược B52, triển khai lại các lực lượng không quân và hải quân chi viện hỏa lực trực tiếp với mật độ cao và cường độ rất lớn cho cuộc phản công. Chính quyền Sài Gòn hy vọng sẽ nhanh chóng chiếm lại thị xã, cắm cờ lên Thành cổ trước ngày 10-7-1972. Đến ngày 27-6-1972, “địch đã chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt cho cuộc tiến công lớn ra vùng giải phóng nhằm chiếm mục tiêu trước mắt là thị xã và Thành cổ Quảng Trị”(3).
Trước hành động của địch, ngày 27-6-1972, Quân ủy Trung ương thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch các hoạt động khẩn trương chuẩn bị tiến công ra Quảng Trị của địch và chỉ thị biện pháp đánh địch của ta phối hợp với đấu tranh ngoại giao. Tối 28-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: “Chuyển từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phản công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững vùng giải phóng, đánh bại cuộc hành quân của địch và phát triển lúc thời cơ có lợi”(4). Bộ Tư lệnh chiến dịch đã bố trí lực lượng gồm các Sư đoàn 308 (trung đoàn 36, 102, 66, Tiểu đoàn 2 độc lập); 304 (trung đoàn 24, 9, 88, Tiểu đoàn đặc công 35); 320B (trung đoàn 27, 64, 18, các tiểu đoàn 14, 47 địa phương) có nhiệm vụ ngăn chặn các hướng tiến công của địch; Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương và 3 tiểu đoàn phòng không có nhiệm vụ bảo vệ khu vực thị xã Quảng Trị, La Vang, Ái Tử. Cùng với việc tổ chức lực lượng ở các hướng chiến lược, việc tổ chức sơ tán cho nhân dân ra khỏi vùng có chiến sự ác liệt được thực hiện khẩn trương. Trong một thời gian ngắn, ta đã đưa được “8 vạn dân thị xã và hai huyện Thiệu Phong, Hải Lăng… đến các nơi an toàn”(5). Trước khi bước vào trận chiến mới, mọi công tác chuẩn bị về lực lượng và thế trận chiến đấu của ta cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, thực tế lúc đó do ta chưa nắm chắc và chưa lường hết âm mưu, thủ đoạn và quyết tâm của địch là tái chiếm lại Quảng Trị, nên ta vẫn chưa có kế hoạch phòng ngự, giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị. Do đó, lực lượng ban đầu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị do Trung đoàn 48 đảm nhiệm là chính.
Tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược, trong một thời điểm chiến lược với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau khá lớn trong một thời gian dài, “là một thành công đặc biệt xuất sắc của các lực lượng vũ trang bảo vệ thị xã, Thành cổ và các lực lượng hiệp đồng tác chiến ở vòng ngoài”(6). Vào thời điểm quân ta rút khỏi Thành cổ, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã điện khen: “Cán bộ, chiến sĩ ta rất dũng cảm, nhiệm vụ đã hoàn thành. Lịch sử chống ngoại xâm, giữ Thành lâu như thế, ông cha ta ít làm”(7).
Kiên cường bám trụ, bảo vệ từng tấc đất Thành cổ
Với mục tiêu trước ngày 10-7-1972 cắm cờ lên Thành cổ để phục vụ ý đồ ép ta ở Hội nghị Pari, dự định họp lại vào ngày 13-7-1972 sau nhiều lần trì hoãn, địch điên cuồng đánh phá. Đây là cuộc hành binh đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại, từ bom phá, bom napan, bom lân tinh, bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng lade đến các loại pháo chơm, pháo khoan, chất độc hoá học và hơi ngạt… Nhằm mục đích hỗ trợ cho tinh thần quân ngụy, ngoài máy bay chiến thuật, chiến lược oanh tạc theo yêu cầu của bộ binh ở tiền duyên, Mỹ còn cho pháo hạm, pháo mặt đất tầm xa bắn tới hai vạn viên đạn suốt một ngày. Với chiến thuật “chậm chắc” mỗi khi gặp quân ta, quân địch dừng lại, đội bom, pháo vào rồi mới tổ chức tiến công tiếp.
Suốt 81 ngày đêm, ngày nào địch cũng tiến hành rất nhiều trận đánh bằng bom pháo, bằng bộ binh có xe tăng, xe thiết giáp, xe phun lửa yểm trợ cho lính dù, lính thuỷ đánh bộ, lính biệt động tiến công, chỉ xoay quanh một tòa thành không đầy 300.000m2, trong một thị xã với diện tích gần 4km2, nhà cửa đổ nát, không một bóng người… Trong khi đó, quân ta, trừ mấy tiểu đoàn của Tỉnh đội Quảng Trị, đại bộ phận đều chưa thông thạo địa hình, phải vừa đánh vừa quan sát hiệp đồng nhưng đã phát huy trí thông minh của từng cấp mà tạo ra cách đánh phù hợp, không chịu phòng thủ thụ động mà liên tục cải thiện thế phòng thủ, vừa giữ chốt vừa xuất kích phản kích, tập kích tìm địch mà đánh. Chính cách đánh sáng tạo của ta đã tạo ra “cái tốc độ rùa bò”(8) 81 ngày đêm từ sông Mỹ Chánh tới Thành cổ của những lực lượng cơ động chiến lược hàng đầu của địch.
Trước sức mạnh tàn phá, huỷ diệt điên cuồng của địch, có ngày “địch đã trút vào mảnh đất nhỏ hẹp này 13.000 đạn pháo, hàng ngàn tấn bom… Tính bình quân, mỗi người dân phải chịu 250 quả đạn pháo”(9). Tuy nhiên, quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về ý nghĩa cuộc chiến đấu ở Quảng Trị là “trận quyết chiến có tầm quan trọng lớn về chính trị và về chiến lược”(10), chúng ta đã kiên cường bám trụ, nhiều trận phản kích đẫm máu của bộ đội ta diễn ra dưới chân Thành cổ. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch phòng ngự Thành cổ Quảng Trị, có thời điểm “các chiến sĩ Trung đoàn 48 đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm “1 chọi 100” đánh quỵ Lữ đoàn 2 dù”(11). Trong trận địa đang nghiêng ngả, chao đảo vì bom đạn của địch, bộ đội ta vẫn kiên cường đánh trả. Trong đó, “có ngày Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 đánh lui 13 đợt tiến công của địch. Chiến sĩ Phan Văn Ba (Tiểu đoàn 3) bị thương nát một bàn tay vẫn kiên quyết xin ở lại chiến đấu”(12). Tình trạng thiếu thốn, khó khăn do tiếp tế vũ khí đạn dược, hậu cần gặp khó khăn như giai đoạn “đầu tháng 8, chiến sĩ ta phải sống bằng lương khô, nước lã, bắn dè xẻn từng viên đạn trong vòng vây địch”(13) cũng không làm nhụt ý chí, quyết tâm của bộ đội ta.
Tuy nhiên, do hỏa lực của địch quá mạnh, phòng tuyến vòng ngoài của ta bị vỡ dần. Từ đầu tháng 9-1972, cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt trong lòng thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, góc phố, từng mảng tường Thành cổ. Thời tiết lúc này không thuận lợi, áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, cả thị xã chìm trong biển nước. Lợi dụng tình hình đó địch tăng cường bắn phá vào công sự của ta. Các chiến sĩ của ta vừa thay nhau tát nước chống ngập công sự, vừa chống trả địch, suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã nên sức khoẻ giảm sút, thương vong rất lớn. Trước tình thế đó, quân ta được lệnh rút lui sang sông Thạch Hãn vào 18 giờ, ngày 16-9-1972.
Từ một thị xã nhỏ ít ai biết đến, Quảng Trị trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước và thế giới bởi sự hung bạo của kẻ thù và tinh thần anh dũng vô song của đồng bào, chiến sĩ ta. Địch đã huy động vào đây những sư đoàn thiện chiến nhất, những đơn vị binh chủng được trang bị tối tân, hiện đại nhất, được chi viện tối đa hỏa lực với khối lượng bom đạn tương đương “7 quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima”. Nhưng quân ta đã làm chủ thị xã trong một thời gian dài, “diệt hơn 24.000 tên địch, phần lớn là quân dù và thuỷ quân lục chiến, bắn rơi 180 máy bay, phá huỷ 140 xe quân sự trong đó có 90 xe tăng, xe bọc thép, 20 khẩu pháo cùng nhiều đồ dùng quân sự khác. Riêng lực lượng vũ trang tỉnh từ 28-6-1972 đến 16-9-1972 đã đánh 642 trận…”(14). Không có sự so sánh nào nói lên hết sự khốc liệt của chiến tranh nhưng “nếu đem so với tất cả các trận đánh phòng ngự đô thị đã diễn ra trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam thì đây là đợt tác chiến dài ngày nhất và cũng là quyết liệt nhất”(15). Tất cả sự hy sinh ấy đều vì độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Sáng ngời chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu (thời gian kéo dài gấp tám lần dự kiến ban đầu của Mỹ - ngụy), phải chịu đựng hàng trăm ngàn tấn bom đạn các loại, nhưng với ý chí “bộ đội còn, Quảng Trị còn”, nhiều trận đánh giáp lá cà để giành giật từng căn hầm, đoạn hào, điểm chốt với địch, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận Quảng Trị đã thực sự trở thành một tập thể anh hùng. Tinh thần, nghị lực, ý chí chiến đấu trong 81 ngày đêm dưới mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù, các đơn vị bộ đội của ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường bám trụ, chốt giữ và giành giật với địch từng mét chiến hào, từng đống đổ nát; mưu trí, linh hoạt, phát hiện và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thậm chí tiêu diệt cả những bộ phận nhỏ, lẻ, bí mật lẻn vào bằng đường hầm nhằm cắm cờ trên Thành cổ. Qua gần 3 tháng chiến đấu anh dũng, kiên cường, các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ chiến lược được giao, làm thất bại ý đồ nhanh chóng “tái chiếm Thành Cổ” của Mỹ - ngụy, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao.
Hơn 4.000 anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và nằm lại nơi Thành cổ, tinh thần kiên cường chiến đấu và niềm tin quyết thắng của những người lính khi tuổi còn đôi mươi đã khẳng định ý chí sắt đá của con người trước bom đạn và điều kiện sống khắc nghiệt nhất của chiến tranh. Sự hy sinh của họ là câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng nhất, cảm động nhất, thức tỉnh lương tri nhân loại về khát vọng cháy bỏng “độc lập, tự do, thống nhất” cho cả dân tộc. Sự hy sinh ấy đã làm sáng ngời chân lý: cái chết không làm chùn bước những người con yêu nước, vũ khí của kẻ thù dù có tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép gang và lòng quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc tập, tự do là khát vọng của cả dân tộc và để có độc lập, tự do thì họ sẵn sàng đánh đổi tính mạng của mình, chấp nhận và khắc phục mọi khó khăn, trở ngại về điều kiện sống, như lời của Tổng Bí thư Lê Duẩn trong lần về thăm Thành cổ đã viết: “Chúng ta đã chịu đựng được không phải vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thật sự - những con người Việt Nam, với truyền thống 4.000 năm đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”(16). Chính tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, thống nhất và một cuộc sống hoà bình, với ý thức về cội nguồn dân tộc đã khiến sức mạnh con người chiến thắng sự tàn phá của vũ khí, bom đạn ác liệt của kẻ thù.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm oanh liệt đã góp phần quan trọng đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ - ngụy, tác động trực tiếp đến Hội nghị Pari. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari được ký kết, những hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm ấy, cùng với những chiến công khác trong năm 1972 đã phần nào được hiện thực hoá trong Hiệp định. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh hai năm gian khổ, mất mát, hy sinh mới tới ngày toàn thắng năm 1975 và được sống trong nền độc lập, tự do mà cả dân tộc cùng đoàn kết đồng lòng, đánh đổi bằng rất nhiều máu xương để giành lại.
Ý chí, khát vọng độc lập tự do của dân tộc được hiện thực hóa bằng sự hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm kiên cường bám trụ bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Đó cũng là ý chí chung của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ 21 năm. Sau ngày toàn thắng 30-4-1975, non sông thu về một mối, đất nước ta bắt tay vào khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
81 ngày đêm “hoa lửa” bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã trở thành huyền thoại. Sự hy sinh, mất mát của quân dân cả nước nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng làm sáng ngời chân lý “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Từ trong bom đạn ấy, hàng nghìn tấm gương anh hùng liệt sĩ đã trở thành những bài học thực tiễn sinh động về lòng quả cảm, về chủ nghĩa yêu nước, về truyền thống anh hùng cách mạng. Trên cơ sở đó, chúng ta tiếp tục “giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”(17)… để thế hệ trẻ hôm nay thêm tự hào, kính trọng, biết ơn lớp lớp cha anh đi trước, nguyện tiếp nối truyền thống quý báu ấy của dân tộc; đồng thời, thấm nhuần tư tưởng “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam”(18) để đóng góp sức mình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển giàu mạnh, tự lực, tự cường./.
------------------------------
(1), (8), (16) Tỉnh ủy Quảng Trị - Bộ Quốc phòng: 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành cổ (1972 - 2012), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 20, 191, 788
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (15) Viện Lịch sử quân sự: Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 20, 22, 26, 29, 129, 128, 127
(9), (11), (12), (13), (14) Thường vụ Đảng ủy và Ban Chấp hành quân sự tỉnh Quảng Trị: Quảng Trị - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), 1998, tr. 213, 211, 213, 214, 215
(10) Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, t. 13, tr. 362
(17), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 143
(18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 22
Lễ phát động Cuộc thi tìm hiểu kiến thức về biển, đảo Việt Nam năm 2022 và ra mắt Triển lãm thực tế ảo “Tổ quốc bên bờ sóng”  (07/07/2022)
Hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường theo tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (27/06/2022)
Hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường theo tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (27/06/2022)
Đảng bộ tỉnh Lào Cai 75 năm xây dựng và phát triển  (04/05/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển