Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho Quân đội nhân dân Việt Nam
TCCS - Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia và của tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Vì vậy, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện tốt chủ trương “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”, tạo cơ sở, nền tảng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo” và Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-4-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp về phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tạo cơ sở, nền tảng từng bước hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Nổi bật là, chủ trương, quan điểm phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, hiện đại đã được các cấp, các ngành triển khai thực hiện nghiêm túc, bảo đảm vừa phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, vừa góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng được quan tâm, coi trọng và từng bước hoàn thiện. Tổ chức lực lượng công nghiệp quốc phòng được củng cố, kiện toàn, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội và ngày càng gắn kết, hòa nhập với công nghiệp quốc gia. Đầu tư cho công nghiệp quốc phòng được chú trọng, nhất là những ngành mũi nhọn, đặc thù. Việc huy động tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp quốc gia trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng có bước chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này ngày càng được mở rộng.
Các dự án đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng, nhất là các dự án trọng điểm, công nghệ cao, được triển khai quyết liệt, đúng định hướng và đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả. Năng lực nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật của công nghiệp quốc phòng có sự chuyển biến rõ nét và có bước đột phá. Công nghiệp quốc phòng từng bước làm chủ công nghệ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, số hóa nhiều loại vũ khí, trang, thiết bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao, hiện đại mang thương hiệu Việt Nam, đáp ứng một phần nhu cầu cung cấp vũ khí, trang bị kỹ thuật cho toàn quân. Nhiều sản phẩm, mặt hàng kinh tế do công nghiệp quốc phòng nghiên cứu, sản xuất có chất lượng, độ tin cậy cao, tạo được thương hiệu, uy tín và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, quốc tế... Qua đó, duy trì được năng lực sản xuất quốc phòng, bảo đảm đời sống, việc làm ổn định cho cán bộ, công nhân viên, người lao động; đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy, quá trình xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng vẫn còn một số hạn chế. Chất lượng một số sản phẩm thiếu ổn định, độ tin cậy chưa cao. Sự kết hợp sản xuất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng với phát triển kinh tế tuy được quan tâm nhưng hiệu quả còn hạn chế; việc thực hiện lưỡng dụng trong các dự án đầu tư và duy trì đội ngũ cán bộ, nhân viên, lao động quốc phòng, dây chuyền công nghệ sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật đặc thù còn gặp nhiều khó khăn. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ của quốc gia và huy động công nghiệp dân sinh phục vụ công nghiệp quốc phòng chưa được quan tâm, coi trọng đúng mức...
*
* *
Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khó lường. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ, làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới cao hơn. Do đó, việc đẩy mạnh xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, góp phần từng bước hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước cũng như tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài, đồng thời là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân, tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, trong đó chú trọng thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với nhiệm vụ xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng.
Các bộ, ngành cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI và Thông báo kết luận số 25/TB-TW, ngày 11-4-2017, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về Đề án “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới””. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấu suốt việc xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng là nhiệm vụ chiến lược và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân. Tích cực đổi mới tư duy, nhận thức, cách thức tổ chức thực hiện về phát triển công nghiệp quốc phòng để vừa bảo đảm cho mục tiêu quốc phòng, an ninh, vừa đóng góp tích cực vào nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng bộ, ngành, địa phương, đơn vị cần cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng thành các nghị quyết, chỉ thị, mục tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể,... để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả. Thời gian tới, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Quốc phòng tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Ban Chỉ đạo Nhà nước về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng. Tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế về công nghiệp quốc phòng; phát triển nguồn nhân lực; xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển cho từng giai đoạn, nhất là các chương trình, dự án trung hạn, dài hạn; huy động tiềm lực quốc gia, kết hợp nội lực với ngoại lực trong xây dựng, phát triển lĩnh vực này.
Hai là, tập trung quy hoạch, định hướng sản xuất các sản phẩm lưỡng dụng phù hợp với thế mạnh, khả năng cạnh tranh; kiện toàn cơ chế quản lý và mô hình tổ chức công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng.
Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, những năm qua, công nghiệp quốc phòng đã đạt được một số kết quả quan trọng: Kết hợp, tận dụng và phát huy được các nguồn lực về công nghệ, thiết bị, đầu tư, tài chính để phát triển kinh tế đạt kết quả tốt; sản xuất hàng dân dụng có sự tăng trưởng khá cao ở một số lĩnh vực; cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị có bước chuyển biến tích cực về quản trị, cơ bản tạo được sức cạnh tranh với thị trường trong nước, bước đầu hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều chủng loại sản phẩm. Một số sản phẩm dân dụng có thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế, như thuốc nổ công nghiệp, đóng tàu, sản phẩm cơ khí, điện, điện tử, viễn thông... Đặc biệt, công nghiệp quốc phòng còn sản xuất và xuất khẩu được một số chi tiết, bán thành phẩm vũ khí cho đối tác nước ngoài, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, không phải bất cứ dây chuyền sản xuất sản phẩm quốc phòng nào cũng có thể được tận dụng để khai thác cho các mục tiêu lưỡng dụng. Vì vậy, để xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, bền vững, ngay từ khâu nghiên cứu, quy hoạch, hoạch định chủ trương phải lồng ghép các lợi ích lưỡng dụng vào từng dự án đầu tư, từng chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học. Trước mắt, Bộ Quốc phòng tập trung tham mưu cho Chính phủ phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Quy hoạch xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.
Cùng với làm tốt công tác quy hoạch, định hướng sản phẩm lưỡng dụng, cần tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức, hoạt động của các cơ sở sản xuất, sửa chữa quốc phòng theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, thiết kế và sản xuất, giữa sản xuất và sửa chữa, bảo đảm cho công nghiệp quốc phòng hòa nhập sâu hơn vào công nghiệp quốc gia, nâng cao hiệu quả kết hợp quốc phòng với kinh tế trong hoạt động của ngành. Trong đó, trọng tâm là cơ cấu, sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt theo hướng tập trung, giảm số lượng, tăng quy mô và sự gắn kết với công nghiệp dân sinh. Để thực hiện mục tiêu đó, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng cần chủ động trong định hướng thành lập các tổng công ty theo ngành, nhóm sản phẩm; nghiên cứu và từng bước đưa các doanh nghiệp quân đội mạnh về kỹ thuật, tài chính vào đội hình đơn vị mũi nhọn để tập trung đầu tư hiện đại hóa, xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc phòng đủ mạnh, có công nghệ tiên tiến, hiện đại. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, hình thành các liên doanh với nước ngoài trong một số lĩnh vực, như cơ khí chế tạo, luyện kim, vật liệu mới, điện tử viễn thông...
Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, trước hết là Tổng cục Công nghiệp quốc phòng phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tiến hành rà soát, thẩm định hệ thống văn bản đã ban hành liên quan đến công nghiệp quốc phòng; tập trung nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, lộ trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, nhất là Luật Công nghiệp quốc phòng theo hướng đổi mới, hội nhập, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính, bảo đảm thiết thực, khả thi để trình Quốc hội phê chuẩn. Trong quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật cần chú ý tháo gỡ các “rào chắn” để khuyến khích, thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng; từng bước cụ thể hóa việc áp dụng các văn bản pháp luật liên quan đến ngành công nghiệp quốc phòng, làm cơ sở cho việc thực hiện hiệu quả công tác này, như về sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ, bảo vệ bí mật nhà nước, cạnh tranh, đấu thầu,...
Ba là, tích cực huy động và đa dạng hóa nguồn lực phát triển công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, nhất là các chương trình, dự án trọng điểm.
Thực tiễn cho thấy, nhu cầu đầu tư cho xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh là rất lớn, trong khi đó ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này còn hạn hẹp. Vì thế, bên cạnh việc tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước, cần mở rộng phương thức huy động, phát huy tổng thể các nguồn lực của đất nước cho thực hiện nhiệm vụ này. Theo đó, lực lượng công nghiệp quốc phòng cần tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực công nghệ cốt lõi, có tính dẫn hướng, tiên phong trong thiết kế, chế tạo vũ khí mới, nhất là ở các khâu tích hợp hệ thống, kiểm tra, thử nghiệm vũ khí. Để đa dạng hóa nguồn lực cho sự phát triển công nghiệp quốc phòng nói chung và công nghệ lưỡng dụng nói riêng, cần nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm của các nước về các lĩnh vực: thu hút vốn đầu tư, chuyên gia giỏi; tiếp nhận, chuyển giao công nghệ. Đồng thời, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp quốc phòng, áp dụng mô hình đối tác công - tư (PPP) trong hoạt động công nghiệp quốc phòng, thành lập các liên doanh với nước ngoài trong phát triển công nghệ chế tạo các chi tiết, bán thành phẩm, các ngành phụ trợ có tính lưỡng dụng cao, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trong quan hệ quốc tế, cần tiếp tục xây dựng lòng tin, củng cố quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác truyền thống, khắc phục các rào cản, hạn chế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc mở rộng khả năng tiếp cận công nghệ lưỡng dụng.
Trong quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị có liên quan cần đặc biệt chú trọng tăng cường công tác quản lý đầu tư, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực; coi trọng đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, “đi tắt đón đầu”, kết hợp đa năng, lưỡng dụng, gắn phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật với xây dựng nguồn nhân lực... Trước mắt, cần tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các chương trình, dự án trọng điểm, nhất là hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng ở một số lĩnh vực mũi nhọn để phát triển các hệ thống vũ khí mới, hiện đại. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển giao công nghệ cho công nghiệp dân dụng, tạo nền tảng, động lực để phát triển công nghiệp quốc gia; phấn đấu thực hiện mục tiêu quốc gia khởi nghiệp từ phát triển công nghiệp quốc phòng như một số nước phát triển trên thế giới.
Bốn là, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng.
Trong điều kiện thời bình, đơn đặt hàng quốc phòng thấp, việc làm chủ công nghệ lưỡng dụng để sản xuất hàng dân dụng sẽ tránh được sự lãng phí vì không sử dụng hết công suất của các dây chuyền công nghệ đã đầu tư. Mặt khác, việc sản xuất sản phẩm lưỡng dụng cũng sẽ hỗ trợ hiệu quả cho việc duy trì và phát triển đội ngũ chuyên môn kỹ thuật nòng cốt trên các dây chuyền quốc phòng. Vì vậy, các bộ, ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Quốc phòng, cần chú trọng hơn nữa đến xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp quốc phòng. Trong đó, ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao, các nhóm nghiên cứu mạnh, chuyên sâu, đội ngũ kỹ sư giỏi, chuyên gia đầu ngành..., nhất là trên các lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn. Tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực, phù hợp với mục tiêu, lộ trình xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, phải chú ý hơn tới các tiêu chí lưỡng dụng (ngoài các tiêu chí chung về bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, chuyên môn quân sự, đội ngũ cán bộ quân sự còn phải am hiểu về pháp luật, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, quan hệ đối ngoại). Ngoài ra, cán bộ công tác trong ngành công nghiệp quốc phòng cần được trải nghiệm thực tiễn và bổ sung kiến thức về cạnh tranh thị trường, luật pháp quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự, các lĩnh vực công nghệ lưỡng dụng, kỹ năng làm việc với các đối tác nước ngoài...
Năm là, nâng cao năng lực quản trị và công tác thị trường của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng.
Để chủ động phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng cần tiếp tục nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, trọng tâm là xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát triển, xác lập mục tiêu, tầm nhìn dài hạn và kế hoạch hành động tổng thể; xác định việc sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng là một thế mạnh của mình. Đồng thời, tích cực áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản lý, điều hành doanh nghiệp cũng như trong quản lý chất lượng sản phẩm... Cùng với đó, doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, xúc tiến phương án hợp tác nghiên cứu với đối tác nước ngoài để cải tiến một số loại vũ khí, trang bị hiện có của Quân đội. Đẩy mạnh công tác thị trường, tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư; tăng cường, duy trì và mở rộng các mối quan hệ ở trong nước và nước ngoài; xây dựng chiến lược phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu; xác định rõ thị trường mục tiêu cho xuất khẩu sản phẩm quốc phòng, sản phẩm dân dụng và xuất khẩu dịch vụ, chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm vũ khí, đạn dược..., tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế./.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Bộ Tổng Tham mưu  (06/09/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển