Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
TCCS - Nhận thức sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của trẻ em đối với gia đình và xã hội - “người chủ tương lai của nước nhà”(1) - Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, góp phần bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Chứng kiến và nhận thức rõ những bất công của chế độ thực dân ở Việt Nam, trong đó có việc chúng lợi dụng, bóc lột sức lao động, tước đi quyền được học tập, quyền được phát triển trí tuệ của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án chế độ thực dân: “Những khổ đau của các nhân dân thuộc địa bị áp bức bắt đầu từ khi họ ra đời. Trẻ em cũng chịu đau khổ vì sự bất công xã hội chẳng khác gì người lớn”(2). Cho nên, trong hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà còn chú ý tìm hiểu về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Với Người, trẻ em là những mầm non, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục về mọi mặt, sức khỏe, học tập, vui chơi, giải trí. Đây chính là sứ mệnh vẻ vang “vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”(3), góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, tạo động lực cho sự phát triển, đưa đất nước tiến tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho trẻ em phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò to lớn của giáo dục mầm non, xem đây là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ, Người chỉ rõ: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”(4). Về nội dung giáo dục, Người cũng nhắc nhở nhiều lần: “Cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc”(5). Về phương pháp giáo dục, Người nêu rõ dạy trẻ em học “phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”(6). Đặc biệt, “khi giáo dục phải thiết thực không được làm cho các cháu thành những “con vẹt”, làm sao cho các cháu khi chơi là được học, mà trong khi học vui vẻ như được chơi”(7). Đây là “việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”(8). Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách của con người; xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó. Cho nên, mỗi trẻ em nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất là từ gia đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh để hình thành, phát triển nhân cách tốt cho trẻ.
Người yêu cầu đối với trẻ em là phải giáo dục thế nào cho các cháu “biết đoàn kết, ham học, ham làm, nhưng phải làm sao cho các cháu giữ được tính chất của trẻ con. Phải làm sao cho trẻ em có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ, hoạt bát chứ không phải là khúm núm, đặt đâu ngồi đấy”(9). Giáo dục các em trở thành những người biết: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu quý của công. Chúng ta phải khéo nuôi dạy, giúp cho nhi đồng phát triển sức khoẻ và trí óc, thành những trẻ em có “4 tính tốt”: hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà”(10). Ngoài việc học, Người cũng yêu cầu: “cần hướng dẫn các em chơi vui một cách tập thể và có văn hóa như hát, múa, làm kịch, cắm trại... Và khuyến khích các em tham gia việc tăng gia sản xuất, thăm viếng thương binh, giúp đỡ gia đình liệt sĩ...”(11), đào tạo trẻ em thành những công dân có ích cho xã hội trên tinh thần “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”(12).
Quan điểm nhất quán về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được thể chế hóa thành quyền trẻ em trong đạo luật cơ bản đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được quy định rõ trong Hiến pháp năm 1946: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”(13). Đây là những quy định mang tính pháp lý cao nhất lúc bấy giờ, khẳng định quyền được học tập, quyền được vui chơi, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam. Bên cạnh việc khẳng định quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em, những lợi ích mà trẻ em được hưởng thụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của trẻ em. Trong thư gửi thiếu niên, nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong, ngày 15-5-1961, Người nêu rõ 5 điều: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh/ Thật thà, dũng cảm”(14).
Việc gắn liền quyền với trách nhiệm của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải từng bước nâng cao ý thức tự giác của trẻ em để phát huy mọi khả năng của các em, để trau dồi kiến thức, phẩm chất đạo đức của mình phục vụ cho Tổ quốc. Theo Người: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(15). Đây chính là kỳ vọng, mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thế hệ tương lai của Việt Nam, trở thành động lực thôi thúc các em phấn đấu, rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng góp phần vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, quan điểm về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta hoàn thiện cơ sở pháp lý và hiện thực hóa quyền của trẻ em. Hiện nay, về cơ bản, nước ta có một hệ thống pháp luật về quyền trẻ em tương đối đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa với pháp luật quốc tế và ứng phó kịp thời với những mối quan hệ xã hội mới, tạo hành lang pháp lý toàn diện nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em ở mức cao nhất.
Hành động vì trẻ em
Nhận thức sâu sắc về vai trò của trẻ em đối với tương lai, vận mệnh của đất nước: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ”(16), nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em được phát triển toàn diện, có môi trường sống an toàn, lành mạnh.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, ngày 20-2-1990. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động đối công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam, theo đó: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình, xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”(17). Trên tinh thần ấy, quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và các quyền khác của trẻ em tiếp tục được thể chế hóa trong các văn bản luật và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương(18) phù hợp với công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay và phát huy đầy đủ quyền của trẻ em.
Hệ thống bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cấp quốc gia được thành lập từ rất sớm, với nhiều hoạt động ý nghĩa và thiết thực, điển hình như Quỹ Bảo trợ trẻ em, là quỹ duy nhất của Nhà nước được thành lập từ ngày 4-5-1992 theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (nay sửa đổi là Luật Trẻ em 2016), có chức năng vận động sự đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết để thực hiện các mục tiêu về trẻ em được Nhà nước ưu tiên. Quỹ hoạt động theo phương châm “tận tâm - minh bạch - kịp thời - cùng tham gia”. Sau 30 năm hoạt động, hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động gần 7.610 tỷ đồng, hỗ trợ hơn 34 triệu lượt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn(19). Nhiều chương trình hoạt động của quỹ đã thể hiện sức sáng tạo, tận tâm, tiên phong vì cộng đồng, vì cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em. Tiêu biểu như chương trình “Mùa xuân cho em”, “Phẫu thuật nụ cười”, “Cùng em đến trường”, “Vì trái tim trẻ thơ”… đã hỗ trợ nhiều mặt cho các em từ thể chất lẫn tinh thần, giúp các em tiếp cận với các điều kiện để phát triển toàn diện. Hoạt động của Quỹ trải dài trên khắp mọi miền Tổ quốc, đặc biệt ưu tiên cho những trẻ em còn thiệt thòi, khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt trong cuộc sống. Hay, Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em có đường dây nóng là 111 (do Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý). Sau 19 năm hoạt động (từ năm 2004 - 2023) đã tiếp nhận 5.398.105 cuộc gọi đến, trong đó, đã tư vấn 469.408 cuộc gọi và hỗ trợ, can thiệp cho 9.601 ca trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, bị mua bán, bị bóc lột, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và vi phạm quyền trẻ em(20). Tổng đài còn tư vấn tâm lý, pháp luật, chính sách cho trẻ em, cha mẹ, thành viên gia đình, người chăm sóc trẻ em. Lưu trữ, phân tích, tổng hợp thông tin để cung cấp, thông tin, thông báo, tố giác khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đối với vụ việc xâm hại trẻ em và các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Ngoài ra, các hoạt động truyền thông vận động xã hội nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; đồng thời, chất lượng phúc lợi xã hội dành cho trẻ em được nâng cao. Nhiều mô hình hỗ trợ can thiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại cộng đồng đã thu hút các tổ chức kinh tế, xã hội, nhà chuyên môn, cá nhân trong và ngoài nước tham gia. Sự tham gia rộng rãi đó đã hình thành nên nhiều phong trào có ý nghĩa thiết thực, như: phong trào “Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Tháng hành động vì trẻ em”, “Toàn dân đưa trẻ đến trường”, “Toàn xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, “Đỡ đầu trẻ em mồ côi không nơi nương tựa”, “Lớp học tình thương”, “Nhà mái ấm”, “Lớp dạy nghề”, “Học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học”, “Quỹ xe đạp chở ước mơ”, “Sóng và máy tính cho em”… Thông qua các phong trào, trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, nhà trường và xã hội đối với trẻ em được thể hiện rõ nét và đạt kết quả thiết thực. Để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án trợ giúp, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, như WHO, ILO, UNICEF, World Vision, Plan, Save the Children, ChildFund..., đồng thời cũng tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến trẻ em.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn một số hạn chế, bất cập, đó là: Một số địa phương và cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực sự quan tâm đến trẻ em; nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chậm được đổi mới, chưa phù hợp với một số nhóm đối tượng, đặc điểm địa bàn dân cư, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời; nguồn nhân lực làm công tác trẻ em còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên thay đổi, một bộ phận còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác; việc phối hợp giữa chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và gia đình về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong nhiều trường hợp vẫn còn bị động…
Ươm mầm xanh cho đất nước - chiến lược lâu dài và toàn diện
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện đầy đủ quyền trẻ em, tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và mối quan hệ xã hội. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, kiểm soát tình hình tai nạn, bạo lực, xâm hại trẻ em”(21). Để nghị quyết đi vào cuộc sống, xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện, cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, các bộ, ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Trong đó, cần bổ sung các chính sách trợ giúp nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi, trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, cận nghèo, trẻ em di cư và trong các gia đình công nhân tại các khu công nghiệp, trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác truyền thông đến toàn xã hội, tập trung vào các đối tượng là cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ về kiến thức, kỹ năng, hỗ trợ, định hướng cho trẻ em. Cơ quan truyền thông từ Trung ương đến địa phương cần mở thêm các chuyên trang, chuyên mục với thời lượng và khung giờ phù hợp với trẻ em nhằm hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em; thông tin, tuyên truyền trên môi trường mạng Internet, mạng xã hội; cung cấp thông tin, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em cho các bậc cha, mẹ học sinh. Các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp, đặc biệt là cấp học mầm non và tiểu học cần lồng ghép vào chương trình giáo dục các nội dung trang bị kiến thức về giới tính, hướng dẫn trẻ em nhận biết các nguy cơ bị xâm hại, kỹ năng phòng tránh, bảo vệ bản thân.
Thứ ba, phát triển các mạng lưới, mô hình cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em có sự phối hợp, chuyển tuyến liên ngành, liên cấp theo hình thức dịch vụ một cửa và các gói dịch vụ tiếp cận trẻ em, cha mẹ và người chăm sóc trẻ em tại gia đình và cộng đồng. Bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền, tương tác trên môi trường mạng xã hội cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, giáo viên các trường học, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đồng thời, mở rộng mạng lưới cộng tác viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở vùng nông thôn và miền núi.
Thứ tư, các bộ, ngành, địa phương chuyên trách công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đúng và đầy đủ các kế hoạch, chương trình hành động vì trẻ em do Trung ương ban hành, như: Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23-12-2019, của Thủ tướng Chính phủ, về “Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, giai đoạn 2020 - 2025”; Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26-5-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em”… Đồng thời, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về trẻ em; đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em, cha mẹ, người giám hộ, tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em.
Thứ năm, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế về quyền trẻ em, áp dụng sáng tạo các giải pháp, kinh nghiệm, mô hình của các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc thực hiện quyền trẻ em. Tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào các hoạt động trợ giúp, chăm sóc, bảo vệ trẻ em./.
-----------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 579
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 434
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 579
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 286
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 746
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 186
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 77
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 175
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 77
(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 500
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 499
(13) Điều 15, Hiến pháp năm 1946
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 131 - 132
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 35
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 579
(17) Điều 37, chương II, Hiến pháp năm 2013
(18) Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 5-11-2012, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; Quyết định số 2361/QĐ-TTg, ngày 22-2-2015, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 - 2020”; Luật Trẻ em năm 2016; Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23-12-2019, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, giai đoạn 2020-2025”; Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26-5-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em”; Quyết định số 23/QĐ-TTg, ngày 7-1-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 - 2030”…
(19) Xem: Đăng Doanh: “Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam: hành trình 30 năm kết nối yêu thương vì trẻ em Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, ngày 29-4-2022, https://tapchilaodong.vn/quy-bao-tro-tre-em-viet-nam-hanh-trinh-30-nam-ket-noi-yeu-thuong-vi-tre-em-viet-nam-1323291.html
(20) Xem: Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em 111: “Báo cáo số liệu 19 năm hoạt động của Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111”, ngày 22-5-2023, http://tongdai111.vn/tin/bao-cao-so-lieu-19-nam-hoat-dong-cua-tong-dai-quoc-gia-bao-ve-tre-em-111
(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 271
Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng, phát triển con người và những gợi ý tham chiếu cho Việt Nam  (15/09/2023)
Thực trạng và giải pháp cho vấn đề quá tải học sinh trường công lập ở thành phố Hà Nội  (28/08/2023)
Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào tạo ở thành phố Hà Nội  (22/07/2023)
Nâng cao giáo dục toàn diện ở Thủ đô Hà Nội  (20/07/2023)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển