TCCSĐT - Trong công tác dân tộc ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán là thực hiện bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc là một bộ phận hữu cơ của đường lối, chính sách chung của Đảng, Nhà nước ta, được thể hiện rõ trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), bao gồm những nội dung mang tính tổng hợp, toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,...

Về kinh tế - xã hội: 1- Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 2- Phát triển kinh tế hàng hóa, phát huy các nguồn lực, tiềm năng kinh tế của miền núi theo hướng chuyên canh, thâm canh; tạo nên các vùng nguyên liệu, nông sản, cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, sản phẩm dồi dào, đa dạng; 3- Đổi mới cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 4- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, mạng lưới đường giao thông ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 5- Thực hiện có hiệu quả các dự án xóa đói, giảm nghèo cho các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu, vùng xa; 6- Thực hiện chính sách định canh, định cư, từng bước ổn định đời sống, giải quyết cơ bản vấn đề đất sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số; 7- Hạn chế nạn đốt phá rừng, bảo vệ nguồn động, thực vật quý hiếm, kết hợp với trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái ở miền núi; 8- Xây dựng các cơ sở công nghiệp, các công trình kinh tế quan trọng, tạo nên những biến đổi về kinh tế ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Về chính trị - xã hội: 1- Phát huy quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo mọi điều kiện để đồng bào tham gia công việc quản lý nhà nước, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng ở địa phương, cơ sở; 2- Phát huy quyền bình đẳng dân tộc và các quyền dân chủ của đồng bào; tôn trọng quyền làm chủ, tính năng động, sáng tạo của đồng bào; 3- Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi trong sạch, vững mạnh; 4- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số có phẩm chất chính trị và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; 5- Tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giáo dục đồng bào ý thức cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; 6- Giữ vững an ninh biên giới và an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; bảo vệ cuộc sống hòa bình, yên ổn cho đồng bào.

Về văn hóa, xã hội: 1- Chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số; tập trung xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư; 2- Quan tâm nâng cao dân trí, an sinh xã hội cho đồng bào; 3- Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và phát triển ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 4- Vận động đồng bào đấu tranh chống mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu; 5- Kiên quyết ngăn chặn các hiện tượng phổ biến, truyền bá văn hóa xấu độc, truyền đạo trái phép, buông lỏng quản lý trên lĩnh vực văn hóa - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Về quốc phòng, an ninh: 1- Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ an ninh biên giới, ngăn chặn mọi hành động thâm nhập, móc nối, nhen nhóm của các phần tử xấu, phản động, âm mưu gây phỉ, xưng vua, kích động chia rẽ,... ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 2- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; kết hợp quốc phòng - an ninh với đối ngoại ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 3- Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; 4- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các khu vực phòng thủ mạnh ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Những vấn đề cơ bản cần giải quyết về công tác dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Để thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước hết cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, nắm vững quan điểm, mục tiêu của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Về quan điểm, cần nắm vững một số nội dung cơ bản sau:

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế để nâng mức sống của các dân tộc và để các dân tộc có sự phát triển ngang nhau là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho đất nước ổn định và phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

- Phát triển kinh tế - xã hội miền núi luôn gắn với vấn đề dân tộc, coi đây là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân.

- Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi là trách nhiệm chung của cả nước, trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của Đảng, chính quyền, đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng thời, đồng bào các dân tộc thiểu số phải vươn lên tự lực, tự cường, chống tư tưởng tự ti, ỷ lại.

- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng; gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết những nhu cầu bức xúc về mặt xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Về mục tiêu, cần nắm vững một số nội dung cơ bản và cụ thể sau:

- Đẩy mạnh phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc. Xóa hộ nghèo; giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng và các dân tộc. Thu hẹp khoảng cách về thu nhập bình quân giữa các dân tộc và các vùng và chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa.

- Bảo vệ sức khỏe của nhân dân các dân tộc, thực hiện được 100% số xã có trạm y tế, có đủ cán bộ và đủ thuốc chữa bệnh. Khống chế bệnh sốt rét, không để xảy ra dịch. Có đủ nước sạch cho nhân dân các dân tộc.

- Nâng cao trình độ văn hóa và đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc; bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; thanh toán nạn mù chữ, đưa thông tin bằng sóng phát thanh và truyền hình đến hầu hết các vùng của đất nước, góp phần nâng cao dân trí của nhân dân các dân tộc.

- Hoàn thành công tác định canh, định cư ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

- Xây dựng cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi trong sạch và vững mạnh, trước hết là đối với cấp cơ sở và cấp huyện.

Thứ hai, thực hiện tốt bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam

Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc để cùng phát triển vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu của chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, được thực hiện nhất quán trong suốt quá trình cách mạng, kể từ khi có Đảng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước phải luôn coi trọng vấn đề này, coi đó là một chiến lược đại đoàn kết dân tộc. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển”. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cần tiếp tục thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:

- Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của chính sách dân tộc. Các dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp, đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, bởi vậy, cần chống mọi biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc,… Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc về kinh tế là bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung của các dân tộc khác trong cả nước. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc về văn hóa - xã hội là bảo đảm cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc; qua đó, làm phong phú và đa dạng nền văn hóa Việt Nam.

- Phần lớn các dân tộc thiểu số hiện nay có trình độ phát triển thấp, vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển là biểu hiện đặc trưng nhất về quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

- Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ, một lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền thống đoàn kết đó được gìn giữ và phát triển trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu đó của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta phải luôn xác định đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc, công tác dân tộc trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; hướng theo hệ tiêu chí của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện, đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong thời kỳ quá độ, nguyên tắc đó phải được cụ thể hóa trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,…

Thứ ba, xây dựng chiến lược về công tác cán bộ đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi

Vấn đề cán bộ là khâu then chốt để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011). Vì vậy, cần xác định một chiến lược công tác cán bộ đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó cần chú trọng một số nội dung chủ yếu sau:

1- Có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số từ cơ sở đến Trung ương, nghĩa là đề ra được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng từng loại cán bộ trong từng thời kỳ theo mục tiêu, chiến lược cán bộ chung của cả nước. Theo đó, số cán bộ của từng dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tương ứng với tỷ lệ dân số của mỗi dân tộc đó.

2- Trên cơ sở quy hoạch đó, củng cố, phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú từ xã đến Trung ương, làm nhiệm vụ giáo dục, đào tạo con em người dân tộc thiểu số có đủ trình độ kiến thức để thi vào đại học. Hệ thống trường này phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về cơ sở vật chất và có chính sách tuyển sinh chặt chẽ, theo nhu cầu của từng dân tộc và địa bàn cụ thể, tránh tình trạng có dân tộc đã nhiều cán bộ nhưng học sinh, sinh viên vẫn chiếm đa số trong trường. Chủ trương cử tuyển vào đại học và cao đẳng chỉ là giải pháp tình thế, vì vậy, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tiến tới bỏ hệ cử tuyển như hiện nay. Theo đó, học sinh học lên các cấp đều phải thi, có đạt trình độ thì mới cho học tiếp, bởi có như vậy mới đào tạo được nhân tài.

3- Có chính sách thu hút, chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ công tác ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, ra sức bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người xuất thân ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, đồng thời có chính sách khuyến khích cán bộ từ nơi khác đến phục vụ lâu dài tại vùng này. Ngoài ra, từng bước có sự điều chuyển cán bộ giữa các vùng và các dân tộc. Chẳng hạn, cán bộ là người miền núi, người dân tộc thiểu số có thể xuống công tác ở vùng đồng bằng và ven biển. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chúng ta đã làm như vậy. Nếu như thực hiện từng bước, rồi tiến tới xóa bỏ được sự ngăn cách về cơ cấu cán bộ giữa các dân tộc thì ngay trong thời kỳ quá độ, chúng ta đã thực hiện được cơ bản sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc một cách thực sự, theo đúng nghĩa của nó về công tác cán bộ.

Thứ tư, xây dựng Luật Dân tộc, làm cơ sở cho việc đổi mới công tác dân tộc

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần thể chế hóa những tư tưởng, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa các dân tộc, cũng như cho việc tiếp tục đổi mới công tác dân tộc. Bởi vậy, việc sớm xây dựng, ban hành Luật Dân tộc là rất cần thiết. Nội dung của Luật Dân tộc cần quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các dân tộc (quyền và nghĩa vụ tham gia quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa,...) và quản lý nhà nước về dân tộc.

Trong Luật Dân tộc, cần có những quy định nhằm nêu cao trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, theo đó, Hội đồng có chức năng quan trọng là giám sát và tăng cường hiệu lực giám sát đối với các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương về việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc. Đồng thời, có quy định về chế tài để mọi tổ chức và cá nhân thực hiện những kiến nghị chính đáng của Hội đồng về lĩnh vực dân tộc. Ngoài ra, có những quy định về việc nâng cao trình độ và năng lực của các thành viên Hội đồng để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhân dân và Quốc hội giao phó.

Luật Dân tộc cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảm trách công tác dân tộc, trong đó, trước hết là Ủy ban Dân tộc (thuộc Chính phủ), là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về dân tộc và trực tiếp quản lý một số chương trình, dự án ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, Ủy ban Dân tộc tập trung vào việc xây dựng chính sách dân tộc và giúp Chính phủ kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân tộc.

Trong Luật Dân tộc, cần quy định rõ, các ngành ở Trung ương, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có chủ trương, biện pháp chỉ đạo toàn ngành về việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, có những quy định cụ thể về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan làm công tác dân tộc ở các địa phương.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các luật, bộ luật có nội dung liên quan đến về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nhằm ngày càng thể chế hóa sát thực và tốt nhất đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội./.