Về chính sách đối ngoại của chính quyền Ô-ba-ma
TCCS - Việc ông Ba-rắc Ô-ba-ma tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 44 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong một buổi lễ hoành tráng tại Đồi Ca-pi-tôn với sự tham dự của hơn 2 triệu người dân Mỹ đánh dấu niềm vinh quang tột đỉnh dành cho một công dân Mỹ da màu, xuất thân từ một gia đình bình thường khi nước Mỹ bắt đầu đổi mới sau 233 năm tồn tại. Tuy nhiên, niềm vui nào cũng đến lúc tàn và thay vào đó là những lo toan và kế hoạch hành động nhằm đón nhận những thời cơ và đối phó với những thách thức tương lai. Đối với chính quyền Ô-ba-ma, thời cơ là rất lớn nhưng thách thức còn lớn hơn vì ông chỉ có 4 năm để giải quyết một khối di sản nặng nề cả về đối nội và đối ngoại do chính quyền tiền nhiệm để lại...
Theo lời ông B.Ô-ba-ma, "Mỹ muốn là bạn của tất cả các nước", xem Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế quan trọng nhất và sẽ hợp tác chặt chẽ với tổ chức lớn nhất này vì nền hòa bình và ổn định của thế giới.
Để thực hiện chính sách ngoại giao mới, chính quyền Ô-ba-ma chủ trương có sự tham gia của hai đảng (Dân chủ và Cộng hòa) và đã cử ra một ê-kíp đảm trách công tác đối ngoại có nhiều kinh nghiệm do bà H.Clin-tơn đứng đầu. Tham gia ê-kíp đối ngoại còn có Phó Tổng thống Giô Bi-đen, nguyên Chủ tịch lâu năm của ủy ban Đối ngoại Thượng viện, Tướng Giêm L.Giôn, nguyên Tổng chỉ huy NATO ở châu Âu giữ chức Cố vấn An ninh quốc gia và ông Rô-bớt Ghết, Bộ trưởng Quốc phòng thuộc Đảng Cộng hòa được lưu nhiệm. Tất nhiên, đây là một công việc không dễ, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế - tài chính Mỹ đang bị khủng hoảng nghiêm trọng; di sản nặng nề về đối ngoại mà chính quyền Bu-sơ để lại và vẫn còn hàng chục triệu cử tri không bỏ phiếu cho ông B.Ô-ba-ma. Tuy nhiên, ông B.Ô-ba-ma có một lợi thế là nhân dân Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới đều chán ghét chính sách của ông G.W.Bu-sơ và tỏ cảm tình với B.Ô-ba-ma khi ông thắng cử; hứa sẽ hợp tác với ông để cùng giải quyết các thách thức của thế kỷ cũng như những mâu thuẫn với Mỹ trong 8 năm cầm quyền của G.W.Bu-sơ.
Trong quá trình vận động tranh cử, B.Ô-ba-ma đã phê phán một cách toàn diện chính sách ngoại giao của G.W.Bu-sơ, từ chính sách chống khủng bố đến quan hệ với đồng minh cũng như đối với các đối tượng khác.
Về chính sách chống chủ nghĩa khủng bố, B.Ô-ba-ma cho rằng phải xem xét nguồn gốc cũng như nhân tố chính trị và kinh tế thúc đẩy chủ nghĩa khủng bố và không tán thành các biện pháp chống chủ nghĩa khủng bố của G.w Bu-sơ là "dùng quân sự đánh đòn phủ đầu trước khi đối thủ có thể hành động". Đặc biệt, các đòn "đánh phủ đầu" này lại dựa trên các bằng chứng ngụy tạo như ở I-rắc. B.Ô-ba-ma chủ trương cần ủng hộ các lực lượng ôn hòa trong đạo Hồi, giúp họ phát triển và giải quyết các vấn đề khó khăn trong nước để họ có thể hội nhập với cộng đồng thế giới.
Nhằm thực hiện cam kết của mình trong vận động tranh cử về vấn đề I-rắc, ông B.Ô-ba-ma đã ký lệnh rút quân Mỹ khỏi I-rắc trong vòng 16 tháng. Phía I-rắc cũng hoan nghênh việc này. Song, do thỏa thuận an ninh mà chính quyền Bu-sơ đã ký với I-rắc và được Quốc hội I-rắc phê chuẩn ngày 4-12-2008 đã hợp pháp hóa sự có mặt của quân đội Mỹ tại I-rắc thêm 3 năm, nghĩa là đến 31-12-2011, có lẽ B.Ô-ba-ma phải có kế hoạch thương lượng lại với chính quyền I-rắc để có thể đẩy nhanh quá trình rút quân. Liên quan đến vấn đề này, ông B.Ô-ba-ma đã cử Phó Tổng thống Giô Bi-đen đến I-rắc trước ngày nhậm chức một tuần. Tuy nhiên, đây chỉ là một mặt của vấn đề. Vấn đề chính là tình hình I-rắc vẫn còn đầy bất ổn về mặt an ninh mà quân đội I-rắc chưa đủ mạnh để đảm nhận trách nhiệm này.
Tổng thống B.Ô-ba-ma cũng đã ký lệnh đóng cửa nhà tù Goan-ta-na-mô trong vòng 1 năm, nhưng việc này cũng không đơn giản vì còn gặp nhiều vấn đề chính trị và pháp lý phức tạp, nhất là việc cho hồi hương các nghi can khi một số nước không nhận. Một số nghi can khi hồi hương có thể bị tử hình, do đó một số nghị sĩ tỏ ra do dự.
Tình hình Áp-ga-ni-xtan lại càng phức tạp hơn vì lực lượng Ta-li-ban đang trở lại. Theo tình báo phương Tây, hiện nay ít nhất có đến 70% vùng nông thôn của nước này chịu sự kiểm soát hay ảnh hưởng của Ta-li-ban. Chính phủ của Tổng thống Ka-dai đã đưa ra đề nghị bảo đảm an ninh cho M.Ô-ma, thủ lĩnh Ta-li-ban để mở các cuộc thương lượng giữa Chính phủ và lực lượng nổi dậy. Điều này làm một số giới chức ở Mỹ lo ngại và ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mỹ và Chính phủ của ông Ka-dai. Mặt khác, việc tăng quân Mỹ ồ ạt sang áp-ga-ni-xtan cũng không đơn giản. Trước mắt, chính quyền Mỹ đã quyết định tăng thêm 30.000 quân nhưng cũng phải hết quý I/2009 mới thực hiện được.
Giải quyết vấn đề an ninh của I-rắc và Áp-ga-ni-xtan liên quan mật thiết đến quan hệ giữa Mỹ với I-ran, nước mà chính quyền Bu-sơ đã liệt vào hàng ngũ "trục ma quỷ". Chính quyền Bu-sơ chủ yếu quan tâm đến tham vọng hạt nhân của I-ran và đối phó với vấn đề này bằng biện pháp "trừng phạt cưỡng chế". B.Ô-ba-ma cho rằng, I-ran là một chủ thể có ảnh hưởng trong khu vực, nhất là trong vấn đề an ninh của cả Áp-ga-ni-xtan và I-rắc. ảnh hưởng của I-ran ở Trung Đông rất lớn và khá phức tạp. Do đó, ngay từ những tuần đầu cầm quyền, chính quyền Ô-ba-ma đã cử ngay đặc phái viên và tuyên bố sẽ thương lượng trực tiếp với I-ran. Động thái này bước đầu đã vô hiệu hóa các biện pháp trừng phạt và cưỡng chế I-ran của chính quyền tiền nhiệm.
Giữa I-ran và Mỹ có mục tiêu chung là không muốn để các lực lượng Săn-ni cực đoan lên nắm quyền ở Áp-ga-ni-xtan. Nhà cầm quyền I-ran đã rất lạc quan trước sự đắc cử Tổng thống của B.Ô-ba-ma. Lần đầu tiên sau 30 năm cắt quan hệ ngoại giao với Mỹ, Tổng thống I-ran M.A-ma-đi-nê-giát đã gửi điện chúc mừng thắng lợi của B.Ô-ba-ma và đề nghị ông thay đổi triệt để chính sách của Mỹ đối với I-ran. Về phần mình, B.Ô-ba-ma vẫn khẳng định "việc I-ran phát triển vũ khí hạt nhân là không thể chấp nhận được" và cho rằng cần "phải cùng nỗ lực để điều đó không xảy ra". Việc bà H.Clin-tơn giữ chức ngoại trưởng cho thấy ít có khả năng chính quyền Ô-ba-ma có thể nhân nhượng gì đối với I-ran. Cuộc mặc cả do đó còn kéo dài, song với Mỹ vẫn là một điều có ích khi tiến hành các cuộc đối thoại với I-ran. Rõ ràng, cách đề cập của chính quyền Ô-ba-ma về vấn đề I-ran có khác với cách làm của chính quyền tiền nhiệm.
Vấn đề Trung Đông vốn không phải là một ưu tiên hàng đầu trong quá trình vận động tranh cử của B.Ô-ba-ma vì đây là một vấn đề phức tạp đối với Mỹ, đặc biệt là vấn đề quan hệ giữa I-xra-en và Pa-le-xtin. Cho đến nay, từ tiến trình hòa bình Ô-xlô của chính quyền Clin-tơn đến Hội nghị An-na-pô-lít của chính quyền Bu-sơ đều đã thất bại trong việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề này. Điều này có thể giải thích bởi hai nguyên nhân.
Hai là, sự chia rẽ trong nội bộ Pa-le-xtin, chủ yếu giữa lực lượng Pha-ta và Ha-mát. Theo bà H.Clin-tơn, Mỹ sẽ "quyết tâm hơn trong việc tìm kiếm một hiệp định công bằng và lâu dài bảo đảm an ninh thật sự cho I-xra-en, quan hệ bình thường và tích cực giữa I-xra-en với các nước láng giềng và nền độc lập, tiến bộ kinh tế và an ninh cho người Pa-le-xtin trong nhà nước của họ". Mỹ sẽ không đối thoại với Ha-mát trừ phi tổ chức này công nhận I-xra-en và từ bỏ vũ lực.
Tuy nhiên, hành động thế nào thì Mỹ không nói rõ. Theo phỏng đoán của giới báo chí, có lẽ chính quyền Ô-ba-ma sẽ quay trở lại tiến trình hòa bình Ô-xlô được đưa ra dưới thời B.Clin-tơn.
Để đối phó với những thách thức mà một mình Mỹ không thể nào đương đầu nổi như ông B.Ô-ba-ma đã nhìn nhận, vấn đề cấp bách hàng đầu đối với chính quyền mới ở Mỹ là phải điều chỉnh quan hệ với các nước lớn, cụ thể là với châu Âu và Nga. Mối quan hệ này đã bị chính sách đơn phương của chính quyền Mỹ làm xấu đi trong thời gian cầm quyền của G.W.Bu-sơ. Dự thảo "Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga đến năm 2020" cũng dự đoán triển vọng mối quan hệ Nga - Mỹ sẽ ấm lên sau khi Tổng thống B. Ô-ba-ma nhậm chức; rằng Nga sẽ cố gắng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược bình đẳng với Mỹ trên cơ sở những lợi ích trùng nhau có tính đến ảnh hưởng quyết định của quan hệ Nga - Mỹ đối với tình hình quốc tế nói chung.
Đối với châu Âu, trong thời gian tranh cử, tháng 7-2008, B.Ô-ba-ma đã thăm châu lục này và đã được 20 vạn người đón tiếp nồng nhiệt ở Béc-lin và hoàn toàn chia sẻ cách đề cập rất thẳng thắn nhưng đầy trách nhiệm của ông về mối quan hệ này. B.Ô-ba-ma thừa nhận giữa Mỹ và châu Âu có những bất đồng và chắc chắn sẽ còn bất đồng trong tương lai, nhưng "nước Mỹ không có đối tác nào tốt hơn là châu Âu".
Dẫu vậy, chưa phải mọi vấn đề giữa Mỹ và Liên minh châu Âu đều đã "xuôi chèo mát mái". Một số nước lớn ở châu Âu cho rằng, sự quan tâm của Mỹ đối với châu Âu giờ đây không còn quan trọng như trước. Thứ nhất, Mỹ cho rằng châu Âu như thế là tạm ổn đối với Mỹ. Thứ hai, do cán cân quyền lực chính trị và kinh tế trên thế giới đang chuyển dần sang châu Á nên với chính sách thực dụng của mình, Mỹ coi trọng châu Á - Thái Bình Dương hơn vì nó liên quan sát sườn đến lợi ích an ninh và kinh tế của Mỹ. Thứ ba, việc Mỹ hòa hoãn với Nga là phù hợp với EU, song một số vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng, như việc B.Ô-ba-ma chủ trương sẽ thương thuyết với Nga để loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân đã làm cho một số nước châu Âu như Pháp lo ngại. Pháp xem vũ khí hạt nhân là "át chủ bài" trong chiến lược quốc phòng vì lực lượng thông thường của Pháp yếu, không đủ tin cậy.
Với việc quyền lực kinh tế - chính trị trên thế giới đang chuyển dần từ Tây sang Đông, châu Á - Thái Bình Dương có một vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Điều đó lại càng đúng với bản thân Tổng thống B. Ô-ba-ma - người mà từ thời trẻ đã sống nhiều năm ở In-đô-nê-xi-a và Ha-oai. Trong hàng ngũ của ông có rất nhiều chuyên gia thành thạo về tình hình châu Á và có nguồn gốc từ châu Á. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một văn kiện chính thức nào của chính quyền Ô-ba-ma phác thảo những nét cơ bản về chính sách mới của Mỹ đối với châu Á. Phát biểu trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, bà H. Clin-tơn cũng chỉ tập trung nói ngắn gọn mấy nét lớn trong chính sách đối ngoại của chính quyền Ô-ba-ma đối với hai đối tượng chính: một là, với các đồng minh và bạn bè và hai là, với Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên.
Với đồng minh và bạn bè, chính quyền Ô-ba-ma xem liên minh với Nhật Bản là hòn đá tảng của chính sách ngoại giao của Mỹ đối với châu Á và Mỹ tiếp tục có quan hệ đối tác quan trọng với Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a và các nước ASEAN về các vấn đề kinh tế và chính trị. Ấn Độ tuy không phải là đồng minh nhưng được xem là nền dân chủ lớn nhất thế giới nên Mỹ sẽ xây dựng quan hệ đối tác với quốc gia này trong các vấn đề kinh tế và chính trị.
Trung Quốc được xem như "một diễn viên cực kỳ quan trọng trong bối cảnh thế giới đang thay đổi và Mỹ mong muốn có quan hệ hợp tác tích cực với quốc gia này. Mặt khác, Mỹ sẽ đề cập thẳng với Trung Quốc những bất đồng nảy sinh". Nguyên thủ quốc gia hai nước đã cam kết cùng làm việc để đưa quan hệ Mỹ - Trung Quốc có những bước phát triển tích cực hơn.
Chính sách đối ngoại của vị Tổng thống thứ 44 của Mỹ có những điểm khác với chính sách đối ngoại của các tổng thống Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Song, chính sách đó vẫn không ngoài mục đích phục hồi vị trí đứng đầu của nước Mỹ trong cộng đồng thế giới. Không ai phủ nhận rằng, sức mạnh của Mỹ là nhất trên thế giới, nhưng "nhất trong số những nước ngang hàng" (First amongst the equals) như người dân Mỹ thường nói. Như vậy là đúng với thực tế.
Chưa đầy 2 tháng kể từ ngày ông B.Ô-ba-ma nhậm chức nên chưa thể kết luận chính sách đối ngoại này có hiện thực hay không, câu trả lời còn ở phía trước./.
Quảng Ngãi phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa  (27/03/2009)
Giải ngân 198 triệu USD vốn ODA  (27/03/2009)
Vĩnh Phúc: Một số bài học kinh nghiệm sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng  (27/03/2009)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên