Thành tựu lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta được kết tinh trong văn kiện các Đại hội Đảng. Đó cũng là sự phản ánh thành tựu chung của giới lý luận nước ta về vấn đề này. Nó gắn liền từng bước với tổng kết thực tiễn trong nước là chính, kết hợp với tham khảo chọn lọc những kinh nghiệm nước ngoài.

Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là một quá trình lâu dài, được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng, đến nay còn đang tiếp tục và sẽ chưa sớm kết thúc.

I - Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận về nền kinh tế thị trường

Ý nghĩa quan trọng của Đại hội VI của Đảng về phương diện này thể hiện trên hai mặt:

Một, sự phê phán triệt để cơ chế cũ tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho cơ chế mới xuất hiện.

Hai, bước đầu hình thành tư duy lý luận "nền kinh tế hàng hóa".

Sau hơn 30 năm vận hành cơ chế cũ, chúng ta rất khó thoát khỏi kiểu tư duy này, nếu không có sự phê phán mạnh mẽ, triệt để. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, cũng như trong Văn kiện Đại hội VI, ba vấn đề được nêu lên thành tiêu điểm thảo luận. Đây là các vấn đề bức xúc đã nhiều năm mà việc giải quyết chúng sẽ góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. Đó là:

1 - Vấn đề cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư

Phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.

2 - Vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế

Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".

3 - Vấn đề cơ chế quản lý kinh tế

Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm đã không tạo được động lực phát triển, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Sở dĩ như vậy vì cơ chế đó quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, mà chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hóa - tiền tệ và sinh ra bộ máy quản lý cồng kềnh, với những cán bộ quản lý kém năng động, có phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền. Đó là cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí".

Cơ chế mới quản lý kinh tế, theo Đại hội VI, có 2 đặc trưng: "Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.

Trong nhiệm kỳ Đại hội VI, về mặt phát triển tư duy lý luận kinh tế hàng hóa, Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989) đã có những đóng góp quan trọng.

Thứ nhất, thay vì nói kinh tế hàng hóa với hai đặc trưng là kế hoạch và cơ chế thị trường với vai trò khác nhau, nay khái quát chung là "nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội".

Thứ hai, nêu lên quan điểm thiết lập các loại thị trường, bao gồm cả thị trường chứng khoán.

Thứ ba, thị trường vừa là một căn cứ, vừa là một đối tượng của kế hoạch.

Thứ tư, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề.

Thứ năm, các hình thức kinh tế tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ sáu, một số cơ sở quốc doanh có thể dùng hình thức vốn cổ phần hoặc chuyển thành xí nghiệp tư bản nhà nước để có thêm điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Như vậy, chỉ sau 2 năm kể từ Đại hội VI, Đảng ta đã sớm có sự bổ sung và phát triển tư duy lý luận về kinh tế thị trường. Những luận điểm trên đến nay vẫn đúng, đang thực hiện và có vấn đề vẫn mang tính thời sự nóng hổi. Kết quả là, nền móng của cơ chế kinh tế cũ bị lung lay từng bước trước đây, đến Đại hội VI của Đảng thì bị phá vỡ, thay vào đó là nền kinh tế hàng hóa với cơ chế mới ra đời. Đó là một bước tiến mới nhảy vọt hướng về kinh tế thị trường, tuy nhiên nó vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cả về lý luận và thực tiễn.

II - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) hoàn thiện hơn tư duy lý luận về nền kinh tế hàng hóa

Đại hội VI của Đảng và Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) tiếp theo có bước đột phá tư duy đối với nền kinh tế hàng hóa, nhưng còn nhiều yếu tố bất cập, chưa hoàn chỉnh.

Sau hơn 4 năm vừa học vừa làm kinh tế hàng hóa, đến giữa năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hóa.

Trước hết, thay vì trước đây chỉ nêu nhiệm vụ "xây dựng nền kinh tế hàng hóa", thì nay nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Chúng ta đều biết, kinh tế hàng hóa tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, với vị trí và vai trò khác nhau. Kinh tế hàng hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, kinh tế hàng hóa có tính phổ biến gắn với tính đặc thù của chế độ chúng ta, đúng với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều này định hướng chính trị cho chúng ta, không phải là xây dựng nền kinh tế hàng hóa bất kỳ nào. Cho đến nay và cả sau này, định hướng đó vẫn còn có tính thời sự nóng hổi đối với chúng ta.

Thứ hai, kinh tế hàng hóa được đặt ở vị trí trung tâm, thỏa đáng trong phần phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Trong phần những định hướng lớn về chính sách trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được trình bày ở vị trí đầu tiên, đúng với tầm quan trọng hàng đầu và bao trùm của nó.

Thứ ba, nội dung kinh tế hàng hóa được trình bày toàn diện, bao gồm cơ cấu ngành kinh tế; sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế; cơ chế quản lý kinh tế; vị trí của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế. Trong đó, nêu lên các luận điểm quan trọng: "Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau", "Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân", "thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".

Thứ tư, nội dung của cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hóa được trình bày đầy đủ và mạch lạc hơn. Nó không chỉ giới hạn ở hai yếu tố chủ yếu như trước đây là kế hoạch và cơ chế thị trường, trong đó nhấn mạnh vai trò của kế hoạch.

Cơ chế đó hiện nay có công thức như sau: "Hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác". Ở đây, kế hoạch chỉ là một yếu tố trong quản lý của Nhà nước.

Thứ năm, "xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...". Vấn đề này đã bước đầu được đặt ra tại Hội nghị Trung ương 6, khóa VI.

Qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc phát triển nền kinh tế hàng hóa cùng với các chính sách khác, đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên đất nước ta. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhận định: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc. Đại hội VIII phát triển thêm Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Về sở hữu, bổ sung thêm hình thức thực hiện sở hữu toàn dân và tập thể vốn đã được đặt ra bước đầu tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994): Triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và các cá nhân ngoài doanh nghiệp. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Hợp tác xã được tổ chức dựa trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần.

Về phân phối cũng được nói rõ hơn: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.

Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: "Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo".

Về cơ chế quản lý kinh tế, xác định thêm: Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.

Việc thiết lập đồng bộ các thị trường được nhấn mạnh và bổ sung thêm: Tổ chức, quản lý tốt thị trường bất động sản, đặc biệt đất đai; xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán.

III - Đại hội IX (tháng 4-2001) về nền kinh tế thị trường

Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là tại Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta đang thực hiện "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Khái niệm đó về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Hai khái niệm "kinh tế thị trường" "kinh tế hàng hóa" có cùng bản chất nhưng cấp độ khác nhau. Trong những năm đầu, khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhận thức lý luận và thực tiễn của chúng ta về nền kinh tế mới còn nhiều khoảng trống. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bước đầu đi vào quỹ đạo của kinh tế thị trường, trên nhiều mặt cái cũ và cái mới còn đan xen nhau. Nhớ lại những năm đầu sau đổi mới, ngay trong giới lý luận nước ta còn tranh luận gay gắt về những vấn đề của kinh tế thị trường. Có thể nói, chúng ta đã đặt chân vào nền kinh tế thị trường, nhưng hiểu biết về nó và hành động theo nó còn rất sơ khai, nhận thức còn chưa thống nhất. Chỉ sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của chúng ta về nền kinh tế thị trường mới rõ dần. Không thể bằng học tập qua sách vở hoặc thông qua khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài có thể đưa lại cho chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc về kinh tế thị trường chừng nào chúng ta còn chưa bắt tay tổ chức công tác thực tiễn về nó.

Đến Đại hội IX, chúng ta đã tích lũy được nhiều hơn nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực này. Có thể nói về cơ bản chúng ta đã thiết kế được khung thể chế kinh tế thị trường và vận hành nó (tuy còn nhiều hạn chế) trên đất nước ta. Thời gian đã chín muồi để Đảng ta tuyên bố: "Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" và đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Văn kiện Đại hội IX cũng tiếp tục phát triển thêm những luận điểm mới, khi ghi rõ: Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cũng có nghĩa khẳng định thêm vị trí pháp lý và vai trò tất yếu của các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế nước ta. Từ nay không phải là "cho phép" các thành phần đó tồn tại hay không, mà tất yếu tồn tại như một quy luật khách quan.

Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng nay nhấn mạnh thêm: phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở "một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế... Giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả".

Kinh tế tư bản tư nhân cũng có môi trường và địa bàn hoạt động rộng rãi hơn: "Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài...".

Việc thiết lập đồng bộ các thị trường vẫn tiếp tục như trước đây, nay bổ sung thêm thị trường khoa học và công nghệ, phát triển các dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển thị trường bảo hiểm. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.

Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư, phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển.

Sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp. Mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm mới.

Như vậy, chủ trương phát triển kinh tế thị trường của Đảng ta luôn luôn đi cùng với các biện pháp bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trên từng bước phát triển.

Về kinh tế đối ngoại, Đại hội IX có bước phát triển mới. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, chuyển qua kinh tế hàng hóa, chúng ta càng coi trọng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Quan hệ đó, trước đây chủ yếu là với Liên Xô, Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV), các nước xã hội chủ nghĩa khác, tức là khu vực sử dụng đồng rúp, thì nay chuyển sang quan hệ ngày càng nhiều với các nước và các tổ chức quốc tế sử dụng đồng đô-la Mỹ.

Trước Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta coi trọng hoạt động xuất nhập khẩu, tín dụng, thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ quốc tế... Thời kỳ sau, một mặt chúng ta phát triển những hình thức đã có, mặt khác đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Tiếp theo, năm 1995, nước ta trở thành thành viên chính thức của ASEAN, năm 1998 gia nhập APEC, năm 2000 ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang hướng tới gia nhập WTO.

Trên cơ sở những kinh nghiệm đã được tích lũy và yêu cầu của thời kỳ mới, tại Đại hội IX, Đảng ta đề ra nhiệm vụ mới: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nghĩa là với tinh thần tích cực hơn, chủ động hơn và quyết tâm hơn.

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, tại kỳ họp thứ 3 (tháng 9-2001), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty, đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Điều đặc biệt là, xác định chi tiết những ngành và lĩnh vực nào đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích cần nắm 100% vốn hoặc cổ phần chi phối. Đối với những doanh nghiệp nhà nước đó, chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cổ phần cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp nhà nước qui mô nhỏ, vốn dưới 5 tỉ đồng, Nhà nước không cần nắm giữ có thể giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê.

Hội nghị Trung ương 5 (tháng 2-2002) đã thông qua các nghị quyết về kinh tế hợp tác, hợp tác xã , kinh tế tư nhân. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Trung ương Đảng ta có nghị quyết riêng về kinh tế tư nhân.

Nghị quyết Trung ương 5 đã cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về kinh tế tư nhân bằng những chính sách, giải pháp cụ thể.

* *

*

Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ngày càng phát triển, hoàn thiện hơn và được hiện thực hóa trong cuộc sống. Nhờ đó, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, nổi bật là:

1 - Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 3 lần trong gần 20 năm qua. Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD/năm tăng lên gần 500 USD/năm, gấp 2,5 lần. Điều quan trọng là nền kinh tế thực, hoạt động theo tín hiệu của thị trường.

2 - Kinh tế thị trường góp phần làm thay đổi sâu sắc cơ cấu ngành nghề và lao động. Tỷ trọng nông nghiệp trong các ngành kinh tế giảm xuống, nhưng những phân ngành theo nhu cầu của thị trường được phát triển nhanh như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, cây thực phẩm, cây công nghiệp... Công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ phát triển có tỷ trọng không ngừng tăng trong nền kinh tế. Riêng xuất khẩu đến nay đã chiếm khoảng 50% GDP. Các loại thị trường mới như thị trường lao động, sản phẩm khoa học - công nghệ, thị trường chứng khoán ra đời và có triển vọng phát triển nhanh.

3 - Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế thay đổi nhanh

Gần hai mươi năm trước, sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế chủ yếu là sở hữu công dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Trên cơ sở đó, có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Dưới tác động của cơ chế thị trường, bản thân các đơn vị kinh tế của 2 thành phần này được sắp xếp lại, có một số bị giải thể, phá sản hoặc sát nhập do làm ăn kém hiệu quả. Các đơn vị kinh tế nhà nước từ 12 000 đơn vị, đến nay giảm xuống còn dưới 5 000 (giảm hơn 50%). Các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể còn lại phần lớn chuyển sang hình thức cổ phần, một số chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn, liên doanh... và làm ăn có hiệu quả hơn. Vì vậy, tuy giảm đơn vị kinh doanh về số lượng tuyệt đối, nhưng giá trị sản xuất kinh doanh vẫn tăng, kinh tế nhà nước và tập thể vẫn giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân (chiếm khoảng 46% GDP) và nắm những ngành kinh tế then chốt; kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự lớn mạnh và vai trò trong nền kinh tế của các tổng công ty nhà nước là một minh chứng.

Sự giảm tương đối của các thành phần công hữu đi song song với sự ra đời và lớn mạnh của các thành phần phi công hữu. Trong giai đoạn hiện nay, không có các thành phần kinh tế này thì kinh tế thị trường cũng khó phát triển. Đó là các thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ trọng của chúng trong GDP hiện nay chiếm khoảng 54%.

4 - Cơ chế quản lý chuyển biến mạnh

Từ chỗ quản lý kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh và mệnh lệnh hành chính là chính, dần dần cơ chế thị trường ngày càng có vị trí quan trọng. Hiện nay, vai trò của cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực của nền kinh tế được thể hiện rõ nét. Tính kế hoạch trong quản lý vẫn không mất đi, nhưng chủ yếu được thể hiện trên bình diện vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị cơ sở, tập trung nhiều hơn vào chức năng quản lý nhà nước. Quyền tự chủ về các mặt của cơ sở ngày càng mở rộng. Quá trình phi tập trung hóa trong quản lý kinh tế là một xu hướng vận động rõ nét hiện nay.

5 - Về phân phối, có sự đổi mới sâu sắc về tư duy và chỉ đạo thực hiện. Cùng với sự xuất hiện nền kinh tế thị trường, chúng ta không chỉ phân phối theo tiêu chuẩn duy nhất là lao động và phúc lợi xã hội như thời kỳ bao cấp trước đây. Sự bổ sung quan trọng mới về chất là phân phối theo mức đóng góp về vốn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó là cốt lõi và là sự mở đường cho hình thức kinh tế mới xuất hiện phổ biến trong xã hội ta: cổ phần hóa. Vốn đóng góp càng nhiều thì lợi nhuận và cổ tức càng nhiều, tiền nhàn rỗi (qua nhiều con đường) đầu tư cho nền kinh tế càng lớn. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay mức đầu tư dựa vào nguồn huy động trong nước đã chiếm đến trên dưới 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (bao gồm đầu tư nước ngoài, vay mượn, viện trợ). Quan niệm về lao động cũng được nới rộng ra, theo đó phân phối chính đáng bao gồm hoạt động quản lý, hoạt động môi giới- một dịch vụ tối cần thiết trong kinh tế thị trường.

Thu nhập đa dạng và không hạn chế về số lượng tuyệt đối, mà tùy thuộc vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đòi hỏi Nhà nước phải điều tiết để bảo đảm công bằng xã hội. Hoạt động này ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên, việc Nhà nước kiểm soát được các nguồn thu nhập cá nhân để điều tiết còn là một vấn đề nan giải.

6 - Tiến bộ và công bằng xã hội là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và được thực hiện tích cực nhằm hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nét nổi bật và được coi là điểm sáng trong các nước đang phát triển và được thế giới đánh giá cao là công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Tính theo tiêu chuẩn thế giới, Ngân hàng thế giới đánh giá tỷ lệ nghèo của nước ta giảm từ 37,4% (năm 1997 - 1998) xuống còn 28,9% (năm 2001 - 2002).

Về chỉ số phát triển con người (HDI - theo các tiêu chí kinh tế, văn hóa, sức khỏe), Việt Nam được thế giới xếp thứ bậc cao hơn chỉ số phát triển kinh tế trong so sánh với các nước khác, đứng trong nhóm nước trung bình của thế giới. Điều đó chứng tỏ chúng ta ưu tiên chăm lo phát triển con người- mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế.

Kinh tế thị trường vừa ra đời ở Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn, nên những nhược điểm, thiếu sót và những vấn đề đặt ra không tránh khỏi. Có thể nêu lên một số điểm đáng quan tâm sau đây:

Một là, kinh tế thị trường nước ta tuy tốc độ tăng trưởng cao, nhưng chất lượng, hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp, có những mặt chưa hoàn chỉnh. Về phương diện vĩ mô, một số cân đối cơ bản chưa vững chắc, khó cho việc chủ động ứng phó với tình hình lúc gặp khó khăn.

Chi phí sản xuất còn cao, giá không ít mặt hàng cao hơn các nước trong khu vực, làm giảm tính cạnh tranh, nhất là khi chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ. Không chỉ trên phạm vi quốc tế, tính cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng thấp, một số doanh nghiệp còn giữ vị trí độc quyền, kìm hãm sự tiến bộ. Về phương diện luật pháp, ngay Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền cũng chưa có.

Các loại thị trường thiết lập chưa đồng bộ, một số thị trường còn sơ khai như thị trường chứng khoán, thị trường sản phẩm khoa học và công nghệ, thị trường lao động. Tình trạng vi phạm bản quyền và thương hiệu còn nhiều...

Bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững cũng là vấn đề lớn phải giải quyết lâu dài.

Hai là, cơ cấu ngành và thành phần kinh tế còn có những bất hợp lý. Các ngành công nghiệp chủ chốt, làm đòn bẩy cho phát triển và tạo vị thế tự chủ về kinh tế (như cơ khí, luyện kim, công nghiệp chế biến...) phát triển chưa tương xứng. Các ngành ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới triển khai còn chậm.

Về các thành phần kinh tế, điều đáng quan tâm là chưa phát huy được thế mạnh của từng thành phần; trong đó, đáng chú ý là kinh tế nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước hiện nay vừa bị trói buộc về cơ chế vừa được bao cấp của Nhà nước (tuy đã giảm nhiều hơn trước). Doanh nghiệp nhà nước quy mô còn nhỏ, lại bị dàn trải trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực mà chúng ta không nhất thiết phải nắm giữ. Việc sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành một số lần nhưng tốc độ còn chậm. Đặc biệt là, việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước do nhiều nguyên nhân nên chưa đạt kết quả như mong đợi. Tất cả những điều đó đã hạn chế nhiều vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tuy quan điểm nhìn nhận của xã hội có tiến bộ hơn trước, nhưng ít nhiều vẫn còn bị kỳ thị. Chúng ta chưa phát huy các năng lực còn tiềm ẩn của khu vực này. Chỉ tính riêng khu vực ngoài quốc doanh trong nước đã chiếm đến 47,6% GDP của cả nước (năm 2003), nhưng vốn đầu tư mới chiếm 25,3% tổng vốn đầu tư. Còn nhiều chính sách, cơ chế chưa được tháo gỡ, mặc dù đường lối của Đảng và sự chỉ đạo của Chính phủ đã thông thoáng hơn trước.

Ba là, sự tiến bộ và công bằng xã hội, lĩnh vực văn hóa - xã hội tuy có nhiều tiến triển nhưng so với tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn còn có một khoảng cách.

Sự chênh lệch giàu nghèo hiện nay nói chung không lớn như các nước nhưng cần đề phòng sự doãng ra, nhất là giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa so với mức bình quân chung của cả nước.

Các mặt tiêu cực trong nước không giảm, có những mặt lại tăng lên. Các tệ nạn như mại dâm, ma túy, HIV/AIDS, cờ bạc, mê tín... phát triển. Tình trạng tham nhũng dưới các thủ đoạn, kể cả ma-phi-a, hoành hành. Sự thoái hóa, xuống cấp về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không ít cán bộ và nhân dân làm xã hội lo lắng. Chuẩn mực giá trị bị đảo lộn trong quan niệm và hành động của nhiều người, nhất là trong thanh niên.

Không thể chấp nhận một bước tiến về kinh tế lại kéo theo một bước lùi một số quan hệ về văn hóa - xã hội. Tới đây, chúng ta phải dày công khắc phục mặt này để đất nước ta đứng vững trên hai chân: kinh tế khỏe và văn hóa-xã hội vững.

Bốn là, đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác trong khu vực và thế giới bắt buộc chúng ta phải tìm ra khâu đột phá trong từng thời kỳ phát triển. Chúng ta đã có những bước đột phá như khi có đường lối Đổi mới của Đại hội VI cởi trói cho cả nền kinh tế, giải phóng lực lượng sản xuất. Trong nông nghiệp có "khoán 10" (trước đó là "khoán 100"); gần đây có "đột phá nhỏ" là Luật Doanh nghiệp tạo điều kiện ra đời nhiều doanh nghiệp tư nhân, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Vậy trước mắt khâu đột phá lớn là gì? Bước tiến mới mạnh mẽ của kinh tế thị trường chúng ta tùy thuộc phần lớn vào lời giải đáp câu hỏi trên.

Năm là, một số vấn đề lý luận liên quan đến kinh tế thị trường cần tiếp tục làm sáng tỏ. Đó là: Chất lượng và tính bền vững của nền kinh tế và mối quan hệ với sự tăng trưởng kinh tế; các hình thức thực hiện chế độ công hữu có hiệu quả; thử tìm cơ chế đưa doanh nghiệp nhà nước đến kinh doanh tự chủ, tự phát triển và cạnh tranh có kết quả trong cơ chế thị trường; phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần phi công hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nâng cao chất lượng một số thị trường hiện còn sơ khai và từng bước phát triển các thị trường mới; văn hóa - xã hội tiến bước cùng với tiến bộ về kinh tế; những bài học kinh nghiệm về quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường; vai trò và phương thức lãnh đạo về kinh tế của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường...