Kết thúc phiên thảo luận sôi nổi, nhiều ý kiến có giá trị được bổ sung vào các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Tiếp tục chương trình làm việc của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, ngày 28-1-2021, Đại hội làm việc tại hội trường, thảo luận về dự thảo các văn kiện. Trong phiên làm việc buổi sáng, đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp.
Trong phiên thảo luận, đã có 13 đại biểu thuộc các đoàn đại biểu, các đảng bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan phát biểu ý kiến, gồm: Bộ Nội vụ, tỉnh Bến Tre, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tỉnh Yên Bái, Bộ Công thương, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, thành phố Cần Thơ, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Đà Nẵng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, tỉnh Kon Tum.
Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ tham luận về vấn đề: "Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và xây dựng nền hành chính nhà nước, góp phần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước", đã điểm lại bức tranh về cải cách hành chính với 5 điểm chính. Đó là, thể chế của nền hành chính được cải cách và dần được hoàn thiện cơ bản phù hợp với yêu cầu chủ trương quan trọng của Đảng và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Theo đó, Thứ trưởng Bộ Nội vụ cho rằng, kết quả cải cách hành chính trong thời gian vừa qua tạo tiền đề, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực trong triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính các cấp từ trung ương đến địa phương, nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế toàn cầu hóa, trong đó đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, xây dựng “chính phủ điện tử”, “chính quyền điện tử” là kết quả nổi bật trong triển khai chương trình tổng thể. Với kinh nghiệm và kết quả đạt được trong giai đoạn vừa qua, Bộ Nội vụ đã đề xuất 6 nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có việc tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng, tổ chức thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 toàn diện, đồng bộ, có trọng điểm; xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, nâng cao trách nhiệm giải trình, từng bước hiện đại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước, đặc biệt cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế của nền hành chính nhà nước cũng như đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của bộ máy hành chính nhà nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế…
Đồng chí Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre tham luận về vấn đề: "Phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, xây dựng đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu", đã đánh giá, với tiềm năng to lớn, lợi thế của mình, đồng bằng sông Cửu Long hội đủ những yếu tố cần thiết để trở thành một trong những vùng kinh tế trọng điểm của khu vực và cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn đến tụt hậu về nhiều mặt so với khu vực phía Nam và bình quân chung cả nước. Một trong những thách thức lớn mà đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt là biến đổi khí hậu. Là một trong 13 tỉnh, thành phố của khu vực, Bến Tre hội đủ các yếu tố đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, giàu tiềm năng về phát triển nông nghiệp và kinh tế biển. Nhận thức rõ thuận lợi và khó khăn của địa phương, gắn kết trong bối cảnh chung của khu vực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre kiến nghị, trên cơ sở Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bám sát chủ trương, định hướng của Chính phủ tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, các bộ, ngành chức năng của Trung ương xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch vùng, sớm đưa vào triển khai thực hiện, tạo cơ chế chính sách để đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, trở thành một trong những trung tâm kinh tế năng động, hiệu quả cao, tương xứng với tiềm năng và vị trí địa chiến lược của vùng. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương cần xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển toàn diện kết cấu hạ tầng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long như: hạ tầng thủy lợi - cấp nước, giao thông - logistics, năng lượng, hạ tầng số,… Đặc biệt, có cơ chế đầu tư phát triển tuyến động lực ven biển nối Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long (qua Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang), phát triển hành lang kinh tế ven biển, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư thứ Nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham luận về vấn đề: "Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên, thúc đẩy phong trào thanh niên tình nguyện, xung kích, sáng tạo khởi nghiệp", nhận định, những giải pháp quan trọng, dài hạn về công tác thanh niên tiếp tục được dự thảo các văn kiện xác định và có bước phát triển. Bên cạnh đó, nhiều nội dung mới, quan trọng trong công tác thanh niên được dự thảo các văn kiện nhấn mạnh. Đó là “nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, với xã hội”; quan điểm phát triển thế hệ trẻ “lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ” và “Chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước”. Sự khẳng định này đã đáp ứng được nguyện vọng thiết tha của thế hệ trẻ ngày nay. Thời gian qua, nội dung giáo dục của Đoàn đã bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương và đơn vị; kịp thời cập nhật tình hình mới; trong đó tập trung giáo dục thanh niên về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần yêu nước của thanh thiếu nhi. Giáo dục lòng nhân ái, tính trung thực, trách nhiệm, hiếu học, yêu lao động, ý thức công dân, chấp hành pháp luật; trách nhiệm của đoàn viên, thanh thiếu nhi trong tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Đặc biệt, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho biết, 3 phong trào “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” và 3 chương trình “Đồng hành với thanh niên trong học tập”, “Đồng hành với thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp” và “Đồng hành với thanh niên rèn luyện và phát triển kỹ năng trong cuộc sống, nâng cao thể chất, đời sống văn hóa tinh thần” và các phong trào nhánh trong từng đối tượng thanh niên đã phát huy tác dụng tích cực…
Đồng chí Đỗ Đức Duy, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái tham luận về vấn đề: "Phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số", khẳng định, Đảng bộ tỉnh Yên Bái quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ về công tác giảm nghèo, những năm qua, luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái cho biết, nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh Yên Bái nhiệm kỳ 2020 - 2025 xác định mục tiêu phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”, trở thành tỉnh khá của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2025… Để thực hiện tốt mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, Tỉnh ủy Yên Bái kiến nghị, trên cơ sở Nghị quyết được Đại hội thông qua, Chính phủ sớm trình Quốc hội thông qua Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, cần thiết kế hợp lý để tránh trùng lắp về đối tượng, nội dung, phương thức hỗ trợ của Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương sớm phê duyệt chương trình, hướng dẫn cụ thể để các địa phương triển khai thực hiện. Ngoài ra, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 1-7-2004, của Bộ Chính trị, về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, Trung ương cần nghiên cứu, ban hành nghị quyết mới, thực hiện trong giai đoạn tiếp theo để các địa phương trong vùng, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc có cơ sở triển khai thực hiện, thu hẹp dần khoảng cách với trình độ phát triển chung của cả nước.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương tham luận về vấn đề: "Nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu" đã nhìn lại quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập của đất nước thời gian qua, cho thấy đã đạt được những kết quả rất quan trọng và tương đối toàn diện, góp phần vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, tạo dựng vị thế của Việt Nam trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam từ một trong những quốc gia thuộc nhóm nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng và vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy... tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng từ vị trí thứ 58 năm 2009 lên vị trí thứ 42 vào năm 2019, trở thành quốc gia có mức tăng hạng nhanh nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN. Trong quá trình đó, một số doanh nghiệp trong nước đã có bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ; đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn như Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát... Để có thể tận dụng được thời cơ, giúp Việt Nam có thể nâng cao vai trò, vị thế trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu và phát triển bền vững, vấn đề trọng tâm là tập trung vào thúc đẩy tái cơ cấu, nâng cao năng lực nội tại của các ngành công nghiệp; phát triển đội ngũ doanh nghiệp trong nước, củng cố các doanh nghiệp lớn, nòng cốt trong các lĩnh vực sản xuất nền tảng và lĩnh vực mũi nhọn, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực áp dụng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ cao.
Đồng chí Y Thanh Hà Niê K'đăm, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tham luận về vấn đề: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã nhận định, thực tiễn thời gian qua cho thấy, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước trong Khối Doanh nghiệp Trung ương luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Ở Việt Nam, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước xuất phát từ lợi ích của đất nước, của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu này là tạo cơ chế, chính sách để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững. Chỉ khi đó mới nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Từ nhận thức và sự tiếp cận quan điểm nêu trên, đồng chí Y Thanh Hà Niê Kđăm đề xuất 5 nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, góp phần bảo đảm tính chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Cụ thể: 1- Nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. 2- Sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. 3- Rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp. 4- Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả - đây là một trong những giải pháp trọng tâm trong việc thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. 5- Nghiên cứu việc thành lập cơ quan thực hiện chức năng đầu tư vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp nhà nước vì việc thực hiện đầu tư và tái đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, phù hợp kinh nghiệm quốc tế và các quy định của pháp luật…
Đồng chí Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ tham luận về vấn đề: "Xây dựng Cần Thơ trở thành trung tâm khoa học- công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực" đã khẳng định khát vọng về phát triển kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long đòi hỏi phải dựa trên tiềm năng lợi thế về nông nghiệp của vùng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Thời gian vừa qua, tăng trưởng của vùng dựa chính vào sự mở rộng quy mô vốn đất đai và lực lượng lao động. Nhưng, những nguồn lực tài nguyên quý giá này đã đến giới hạn của nó. Tăng trưởng trong tương lai sắp tới chỉ có thể dựa vào khoa học - công nghệ để tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Dù không phải là địa phương có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn nhất vùng, nhưng Cần Thơ lại là nơi hội tụ nhiều tiềm năng, lợi thế và đang có nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm khoa học - công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực. Đặc biệt, Cần Thơ là địa phương có điều kiện tốt nhất vùng về tiềm năng khoa học - công nghệ, cả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao. Hiện tại, thành phố cũng đang triển khai thủ tục lập quy hoạch và xây dựng Khu công nghệ cao Cần Thơ, khu công nghệ thông tin và ba khu nông nghiệp công nghệ cao cùng với việc đẩy mạnh xúc tiến, mời gọi các nhà đầu tư; thúc đẩy liên kết và hình thành được nhiều vùng sản xuất lúa hàng hóa, vùng trồng rau màu, cây ăn trái và chăn nuôi thủy sản theo hướng tập trung, quy mô lớn, thuận lợi cho ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật... Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh đã đề xuất một số định hướng phát triển khoa học - công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, như: Tập trung chuyển đổi mạnh mẽ các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo sang cơ chế thị trường với hệ thống các giải pháp thúc đẩy cả về phía cung - cầu khoa học - công nghệ từ doanh nghiệp nông nghiệp và người nông dân, đồng bộ với các giải pháp liên kết cung - cầu, phát triển thị trường khoa học - công nghệ hoạt động hiệu quả, tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ…
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh tham luận về vấn đề: "Phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng miền trong tỉnh", cho biết, trong 5 năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi phương diện xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh. Quảng Ninh trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của phía Bắc. Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh cho biết, để đạt được những kết quả toàn diện, Quảng Ninh luôn gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh, phúc lợi, tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách của địa phương; không chờ kinh tế phát triển rồi mới lo các vấn đề về xã hội, bằng hệ thống đồng bộ các giải pháp cụ thể, hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, với phương châm mọi người dân Quảng Ninh đều được hưởng thành quả phát triển, tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau… Từ thực tiễn, bước đầu, Quảng Ninh đã rút ra một số kinh nghiệm quan trọng: Một là, tỉnh bám sát, nắm chắc, chủ động tiếp thu, hiện thực hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương, sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành và các địa phương nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh, huy động sức mạnh tổng hợp với phương châm nội lực là căn bản, ngoại lực là chủ yếu. Hai là, xác định tầm nhìn chiến lược, dài hạn; thực hiện phương châm “Quy hoạch tổng thể; xây dựng từng phần”; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện; lựa chọn đúng trọng tâm, khâu đột phá, tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo, nguồn lực, tổ chức thực hiện dứt điểm, đo lường được kết quả, hiệu quả... Ba là, đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ, ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; tạo sự đồng thuận xã hội. Lấy “dân làm gốc”, nhân dân vừa là trung tâm, chủ thể, vừa là nguồn lực, động lực và mục tiêu của sự phát triển; bảo đảm tính bền vững, hài hòa ngay trong từng bước đi…
Đồng chí Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng tham luận về vấn đề: "Một số bài học từ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng", cho biết, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng gặp nhiều khó khăn, thách thức trong công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng nói riêng. Đồng thời, thành phố gặp nhiều khó khăn, thách thức, phát sinh nhiều vấn đề nổi cộm, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng nhà đất, cấp phép đầu tư, quản lý đô thị; cùng với đó là việc khắc phục những sai phạm trong lãnh đạo, quản lý của các nhiệm kỳ trước... Rút kinh nghiệm từ các ý kiến kết luận của Ủy Ban Kiểm tra Trung ương, các cấp ủy đảng thành phố Đà Nẵng đã tập trung tăng cường lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đoàn kết, thống nhất, bảo đảm dân chủ trong Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020. Trong bối cảnh chung của cả nước và thành phố, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao uy tín của Đảng, là cơ sở cho việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ thành phố, góp phần vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Từ các bài học kinh nghiệm thực tiễn, Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đề ra định hướng trong thời gian tới sẽ tăng cường vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và ban thường vụ cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; chủ động phát hiện vi phạm để ngăn chặn, khắc phục kịp thời, không để vi phạm của người đứng đầu thành vi phạm của một tổ chức. Ngoài việc tăng cường kiểm tra, giám sát phát hiện vi phạm, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng cũng nhấn mạnh việc bảo vệ, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng đạt được hiệu quả tốt hơn.
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ tham luận về vấn đề: "Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”, khẳng định khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trong thời gian tới, ngành khoa học và công nghệ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo như là cầu nối để khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp phát triển kinh tế - xã hội, qua đó tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh... Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng lực đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; tập trung phát triển công nghệ cao, công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có khả năng ứng dụng cao...
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông tham luận về vấn đề: "Chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới", cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình hay chiến lược về chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là cuộc chuyển đổi toàn diện từ không gian thực lên không gian số, cho phép đưa toàn bộ hoạt động lên không gian số. Cuộc dịch chuyển này diễn ra với tốc độ nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Giống như khai phá những vùng đất mới, không gian mạng được mở rộng sẽ tạo dư địa và mở ra không gian phát triển mới cho đất nước. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số và “Make in Viet Nam” sẽ là con đường đúng đắn và bền vững nhất để nâng tầm và đưa sản phẩm “Make in Viet Nam” tiếp cận với các thị trường ngoài nước. An toàn, an ninh mạng phải song hành và trở thành một phần không thể tách rời của chuyển đổi số. Ngành thông tin và truyền thông đặt mục tiêu đưa Việt Nam thành cường quốc an toàn, an ninh mạng với trọng tâm là làm chủ hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng Việt Nam. Với năng lực làm chủ tới hơn 90% hệ sinh thái vào năm 2020, Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào và tin tưởng rằng hệ sinh thái "Make in Viet Nam" sẽ bảo đảm sự thịnh vượng của Việt Nam trên không gian mạng và cùng với các nền tảng số Việt Nam vươn ra thế giới. Để tăng tốc chuyển đổi số quốc gia, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông nêu 4 giải pháp đột phá về vấn đề làm chủ hạ tầng số; làm chủ các nền tảng số; làm chủ không gian mạng quốc gia hướng tới phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, nhân văn và rộng khắp; làm chủ công nghệ sản xuất “Make in Viet Nam”, hướng tới mục tiêu hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.
Đồng chí Đỗ Việt Hà, Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương tham luận về vấn đề: "Thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo chủ chốt các cấp", cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải phải nghiêm khắc với mình, luôn tự nhìn nhận, xem xét, đánh giá bản thân một cách nghiêm túc theo chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, giữ vững nguyên tắc dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch trong sử dụng và đánh giá cán bộ. Cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình trong kỷ luật của tổ chức, nghiêm túc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nội quy, quy định của cơ quan, đoàn thể; phải là những người đi đầu trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên tạc, thù địch. Là Đảng bộ lớn, đặc thù, có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, Đảng bộ Khối đã chủ động chọn 3 khâu đột phá là: Tiến hành xây dựng và thực hành đạo đức công vụ theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng chi bộ; tăng cường và đổi mới công tác dân vận, nhất là trong cơ quan nhà nước. Từ đó, nhận thức và thực hiện về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đã được nâng lên một bước. Tuy đạt được nhiều thành tích, Phó Bí thư Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương cho biết, vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Trong đó, nhận thức về trách nhiệm nêu gương của một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Một số nơi việc thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất, đôi khi còn qua loa, chiếu lệ. Có không ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có những biểu hiện “cua cậy càng, cá cậy vây”, quan liêu, xa dân; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, lợi dụng chức vụ, quyền hạn sa vào chủ nghĩa cá nhân, bè phái, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, lãng phí...
Đồng chí A Pớt, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Kon Tum tham luận về vấn đề: "Đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số" đã đề xuất 7 giải pháp trọng tâm để nâng cao đời sống vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, gồm: 1- Tiếp tục phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho nhân dân các dân tộc thiểu số về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại, qua đó góp phần làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững. 2- Tập trung triển khai đồng bộ và huy động tối đa các nguồn lực đầu tư để lồng ghép thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung thực hiện có hiệu quả các Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030… 3- Tiếp tục huy động nguồn lực đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất về giáo dục; chính sách về dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất lao động là người dân tộc thiểu số. Quan tâm đào tạo và cung ứng lao động dân tộc thiểu số làm việc trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tại các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động. 4- Tiếp tục đầu tư, củng cố mạng lưới y tế cấp xã; nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng trong nhân dân. 5- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; hoàn thiện cơ bản các thiết chế văn hóa cơ sở, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. 6- Phát động và triển khai có hiệu quả Cuộc vận động: “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững”. 7- Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng khối đại đoàn kết trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ động ngăn chặn các hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc…
Như vậy, sau một ngày rưỡi tiến hành thảo luận tại hội trường, đã có 36 đại biểu trình bày tham luận, nói lên tiếng nói rộng rãi của các ngành, lĩnh vực, địa phương. Các tham luận phân tích, làm rõ hơn những quan điểm đã được trình bày trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Các tham luận đều được chuẩn bị kỹ lưỡng, thể hiển tính trách nhiệm, tính sâu sắc, nhưng cũng rất thẳng thắn và có tính thực tiễn cao, thể hiện quyết tâm, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kết thúc phiên thảo luận, Đại hội tiếp tục làm việc về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII với việc biểu quyết thông qua số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII là 200 đồng chí, gồm 180 đồng chí Ủy viên chính thức và 20 đồng chí Ủy viên dự khuyết./.
Thùy Linh (tổng hợp)
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính điều hành phiên thảo luận dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng  (27/01/2021)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc điều hành thảo luận dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng  (27/01/2021)
Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng  (26/01/2021)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển