Quảng Nam hướng tới mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững
TCCSĐT - Công tác giảm nghèo được cả hệ thống chính trị và nhân dân tỉnh Quảng Nam tích cực tham gia và ngày càng được xã hội hóa. Các chương trình, chính sách, dự án hỗ trợ giảm nghèo được triển khai và tổ chức thực hiện đồng bộ, kịp thời ở hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn.
Quảng Nam tuy là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội nhưng do địa phương có điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, trình độ dân trí không cao; số lượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và số huyện, xã, thôn nghèo, đặc biệt khó khăn còn chiếm tỷ lệ cao… gây khó khăn, thách thức rất lớn cho sự phát triển của địa phương. Theo kết quả điều tra hộ nghèo cuối năm 2010, toàn tỉnh có 90.109 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 24,18%, trong đó: hộ nghèo dân tộc thiểu số có 21.669 hộ, tỷ lệ 75,39%; có 07 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 50%, trong đó có 03 huyện nghèo nhất nước theo Nghị quyết số 30a; có 57 xã nghèo đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 và 21 xã nghèo thuộc chương trình 257…
Trăn trở trước thực trạng trên, cùng với việc quán triệt, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo, nhất là Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19-5-2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020, những năm qua, các cấp ủy, chính quyền trong tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả công tác giảm nghèo. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo chung giảm còn 10,26%, riêng tỷ lệ hộ nghèo thuộc chính sách giảm nghèo giảm còn 6,91%, hoàn thành mục tiêu giảm nghèo mà Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã đề ra (giảm từ 2,5-3%/năm).
Cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc
Tỉnh ủy Quảng Nam đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo chỉ đạo, trong đó có nhiều văn bản quan trọng, cấp thiết như: Chương trình hành động số 17-CTr/TU ngày 01-10-2012 thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01-6-2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”; Kết luận số 96-KL/TU ngày 22-7-2013 về đẩy mạnh công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh; Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 31/2011/NQ-HĐND ngày 09-12-2011 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 55/2012/NQ-HĐND ngày 19-9-2012 về Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-2016 và định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 119/2014/NQ-HĐND ngày 11-7-2014 về thực hiện Chính sách khuyến khích thoát nghèo bền vững giai đoạn 2014-2015. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều đề án, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội để giảm nghèo nhanh và bền vững; chỉ đạo các ngành, các địa phương thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh về thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, đồng bộ, có hiệu quả các chương trình, chính sách, dự án hỗ trợ giảm nghèo; xây dựng bộ máy tổ chức cán bộ làm công tác giảm nghèo và từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Cùng với cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các hội, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trên địa bàn cũng tích cực vào cuộc. Các tổ chức đã phát huy vai trò của mình trong công tác tuyên truyền, vận động, giám sát thực hiện chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo, đưa các hoạt động giảm nghèo đi vào cuộc sống. Nhiều phong trào đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và khơi dậy được ý chí chủ động, tự lực vươn lên của người nghèo, tự nguyện ý thức trách nhiệm đăng ký thoát nghèo bền vững, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng, đặc biệt là trong giám sát điều tra, rà soát hộ nghèo, cận nghèo hằng năm.
Thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp giảm nghèo
Trước hết, tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách giảm nghèo chung của quốc gia. Theo Báo cáo công tác giảm nghèo của tỉnh, từ năm 2010 đến năm 2015, địa phương tạo điều kiện cho hơn 107 nghìn lượt hộ nghèo, cận nghèo và học sinh, sinh viên vay hơn 1.707 tỷ đồng; cấp hơn 1,76 triệu thẻ bảo hiểm y tế người nghèo và người cận nghèo với kinh phí hơn 840,3 tỷ đồng; chi hơn 298,59 tỷ đồng cấp bù học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên; đầu tư hơn 116 tỷ đồng xây dựng các công trình nước sinh hoạt và dựng các điểm định canh, định cư tập trung và xen ghép cho đồng bào dân tộc thiểu số; cấp 86,613 tỷ đồng hỗ trợ nâng cao đời sống cho các nhân khẩu thuộc hộ nghèo vùng khó khăn; hỗ trợ tiền điện cho 297,2 nghìn hộ nghèo, kinh phí 106,993 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tỉnh còn tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo; củng cố 32 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tại 32 xã của 03 huyện nghèo; thực hiện có hiệu quả chương trình đưa văn hóa, thông tin về cơ sở; đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, giúp người nghèo tiếp cận chính sách giảm nghèo, phổ biến các mô hình giảm nghèo có hiệu quả, gương thoát nghèo…
Thứ hai, cùng với việc triển khai thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo của Trung ương, những năm qua tỉnh còn triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù của tỉnh, giải quyết những khó khăn, bức xúc về y tế, giáo dục, kết cấu hạ tầng; khuyến khích thoát nghèo bền vững. Qua đó, tỉnh giải quyết cấp bù 50% học phí cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hỗ trợ 30% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế cho người cận nghèo, cấp bù 5% chi phí cùng chi trả viện phí cho người dân tộc thiểu số; phụ cấp cán bộ theo dõi công tác giảm nghèo ở cấp xã; hỗ trợ 170,5 tỷ đồng đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng cho các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhưng chưa được hưởng chính sách hỗ trợ cho các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a (Chương trình 30c),... Chỉ riêng kinh phí thực hiện các chương trình này trong 2 năm (2014, 2015) lên đến trên 324,6 tỷ đồng. Nổi bật trong đó là triển khai thực hiện Nghị quyết số 119/2014/NQ-HĐND ngày 11-7-2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh trong 2 năm (2014 và 2015) có gần 9.000 hộ nghèo đăng ký và thoát nghèo bền vững (những năm trước đó bình quân mỗi năm chưa đến 1.500 hộ nghèo thoát nghèo bền vững, chủ yếu vươn lên cận nghèo),…
Thứ ba, đẩy mạnh xã hội hóa công tác giảm nghèo, tăng cường huy động vốn từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác để phục vụ thực hiện công tác giảm nghèo. Các nguồn vận động như Quỹ “Vì người nghèo”, nguồn hỗ trợ từ các tổng công ty, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, các phong trào của phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, thanh niên,…đã góp phần rất lớn cùng với Nhà nước bảo đảm an sinh xã hội cho người nghèo, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc với cuộc vận động Quỹ “ Ngày vì người nghèo” đã huy động và hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở (trên 2.700 nhà), hỗ trợ vốn, phương tiện sản xuất, kinh doanh, trợ giúp học bổng cho học sinh, sinh viên; các doanh nghiệp hỗ trợ các huyện, xã nghèo xây dựng trên 20 công trình kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, dân sinh,…với tổng kinh phí trên 300 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các đoàn thể còn phát động nhiều phong trào thi đua, nhận đỡ đầu, giúp đỡ hộ nghèo về nhiều mặt và đã có nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả như hỗ trợ phương tiện, công cụ sản xuất, buôn bán nhỏ, trợ giúp học tập, y tế,…
Trên cơ sở nguồn lực đã huy động, tỉnh triển khai thực hiện kịp thời, đồng bộ và có hiệu quả các chế độ, chính sách giảm nghèo của Trung ương và địa phương. Các nguồn vốn huy động ngoài ngân sách được sử dụng và phân bổ, hỗ trợ đúng đối tượng, hiệu quả nhất là Quỹ Ngày vì người nghèo, các nguồn tài trợ của doanh nghiệp cho các huyện nghèo,... Theo Báo cáo của tỉnh, nguồn vốn huy động, phân bổ thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 2011-2015 đạt trên 7.183,459 tỷ đồng, trong đó riêng 2 năm (2014 - 2015) đạt trên 3.255 tỷ đồng. Ngoài ra, một số ngành và địa phương đã tổ chức lồng ghép tốt hoạt động, kinh phí giữa các chương trình, dự án với Chương trình giảm nghèo, đặc biệt là Chương trình xây dựng nông thôn mới, việc làm và dạy nghề, ứng phó với biến đổi khí hậu,... tại địa bàn huyện nghèo, xã nghèo và thôn nghèo như: Đầu tư xây dựng theo tiêu chí nông thôn mới là 1.527 công trình, trong đó: Nghị quyết 30a: 526 công trình; Chương trình 257: 174 công trình; Chương trình 135: 635 công trình; đầu tư theo Nghị quyết 55 (30c) là 192 công trình, trong đó chủ yếu là đầu tư giao thông, trường học, trạm y tế và công trình thủy lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông, phát triển sản xuất, giảm dần khoảng cách giữa đồng bằng và miền núi.
Thứ tư, thường xuyên củng cố, sắp xếp bộ máy cán bộ làm công tác giảm nghèo từ tỉnh đến cơ sở. Ở cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh giao Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành lập, trực tiếp chỉ đạo, điều hành Văn phòng Chương trình giảm nghèo của tỉnh (sử dụng 03 biên chế của Sở Lao động - Thương binh và xã hội và hợp đồng 02 cán bộ chuyên trách giảm nghèo); ở cấp huyện, các địa phương vẫn sử dụng biên chế của Phòng Lao động - Thương binh và xã hội. Riêng 03 huyện nghèo bố trí thêm mỗi huyện 01 cán bộ chuyên trách giảm nghèo; ở cấp xã hiện nay vẫn thực hiện bố trí cán bộ theo dõi công tác giảm nghèo và đa số các xã, phường, thị trấn bố trí cán bộ khác như văn hóa - xã hội, Văn phòng Đảng ủy..., kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, công tác luân chuyển, thu hút cán bộ được chú trọng hơn, nhất là việc tuyển chọn, thu hút cán bộ trẻ về công tác tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh theo Đề án 500 của tỉnh. Các huyện nghèo đã tổ chức thực hiện tốt chính sách luân chuyển cán bộ, tăng cường đãi ngộ cán bộ, nhất là luân chuyển, tăng cường cán bộ chủ chốt, thu hút trí thức trẻ tình nguyện về công tác tại các xã thuộc các huyện nghèo.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đánh giá, thống kê, tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện công tác giảm nghèo ở các cấp. Để bảo đảm các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo triển khai kịp thời, hiệu quả, tỉnh thường xuyên kiểm tra, giám sát tại cơ sở; thường xuyên cập nhật thông tin, số liệu về nghèo đói, về tình hình, tiến độ và kết quả thực hiện từng chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo để kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc và đôn đốc hoàn thành đúng tiến độ để sớm phát huy hiệu quả; cơ quan thanh tra thực hiện có hiệu quả các đợt thanh tra chuyên đề về chính sách giảm nghèo; các cấp ủy đưa nội dung công tác giảm nghèo vào Nghị quyết đại hội, Nghị quyết của Đảng ủy và ban hành kế hoạch kiểm tra định kỳ về công tác giảm nghèo…
Vấn đề đặt ra và giải pháp giảm nghèo bền vững
Công tác giảm nghèo của Quảng Nam tuy đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn nhiều vần đề đòi hỏi địa phương tiếp tục có giải pháp thích hợp, để công tác này đạt hiệu quả cao và bền vững. Cụ thể là:
- Vấn đề giảm nghèo ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tuy được tỉnh đề cập đến khá nhiều, nhất là tại Kết luận số 96-KL/TU ngày 22-7-2013 của Tỉnh ủy đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, đồng thời tập trung đầu tư khắc phục nhưng đến nay hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao (cao hơn vùng đồng bằng 8 lần); số lượng xã nghèo không giảm mà còn tăng lên nhiều so với năm 2010 (từ 78 xã lên 104 xã, trong đó xã nghèo thuộc Chương trình 135 tăng từ 57 xã lên 85 xã)
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở một số ngành, địa phương chưa tập trung, quyết liệt, chưa kịp thời.
- Một số chính sách, dự án hỗ trợ giảm nghèo đầu tư chưa hiệu quả, còn dàn trải, chồng chéo, trùng lặp chế độ, đối tượng trên cùng một địa bàn, việc hỗ trợ còn mang tính bình quân, mức hỗ trợ thấp, hiệu quả chưa cao; bố trí nguồn lực chưa hợp lý, lồng ghép hoạt động giữa chương trình, dự án giảm nghèo với các chương trình, dự án khác chưa gắn kết, đồng bộ.
- Việc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ giảm nghèo trực tiếp, nhất là đối với miền núi, dân tộc thiểu số, hộ nghèo, thôn, xã và huyện nghèo đã làm mất đi động lực phấn đấu, tạo nên tâm lý trông chờ, ỷ lại, không muốn thoát nghèo trong một bộ phận hộ nghèo, kể cả cán bộ địa phương.
Từ kết quả cũng như những vấn đề trên, thiết nghĩ để công tác giảm nghèo tiếp tục đạt hiệu quả cao và bền vững hơn, thời gian tới, Quảng Nam cần chú trọng vào một số vấn đề sau:
- Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền đối với công tác giảm nghèo; nên phân công cấp ủy viên theo dõi, đứng điểm các địa bàn huyện, thị xã và thành phố, nhất là địa bàn huyện nghèo và xã nghèo.
- Tiếp tục phát động các phong trào hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo để thoát nghèo bền vững hoặc nhận phụng dưỡng hộ nghèo cô đơn, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không thể thoát nghèo, phong trào đăng ký thoát nghèo bền vững; tăng cường công tác phối hợp, giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực hiện chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo.
- Chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác giảm nghèo, chống bệnh thành tích hoặc chạy chính sách trong công tác giảm nghèo, nhất là công tác điều tra xác định hộ nghèo hằng năm.
- Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nhất là ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo tự lực vươn lên phát triển kinh tế, có việc làm, tăng thu nhập, thụ hưởng các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội, ưu tiên đầu tư cho khu vực miền núi, dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho hộ thoát nghèo bền vững, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trên địa bàn ./.
Tuần tin cải cách hành chính từ ngày 11 đến ngày 17-4-2016  (18/04/2016)
Hội nghị mùa Xuân IMF-WB: Các nước cam kết thúc đẩy tăng trưởng  (17/04/2016)
Hơn 8 triệu lượt người về dâng hương tưởng niệm các vua Hùng  (17/04/2016)
Chủ tịch nước tiếp Phó Thủ tướng Campuchia Sar Kheng  (17/04/2016)
Điện mừng Đại hội toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Cuba  (17/04/2016)
Thủ tướng Chính phủ: Phát triển kinh tế thì doanh nghiệp là tiên phong  (17/04/2016)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên