TCCSĐT - Để Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước về quyền của người khuyết tật, Quốc hội khoá XIII đã phê chuẩn Công ước tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10-2014). Từ góc độ pháp lý, chúng ta có thể nhận thấy được một số công việc quan trọng đã và đang đặt ra với những thuận lợi, khó khăn, thách thức nhất định, từ đó cũng gợi mở việc tìm kiếm hướng giải quyết phù hợp.

Nghiên cứu nội dung Công ước, rà soát hệ thống pháp luật trong nước về người khuyết tật

Có thể nói, việc nghiên cứu nội dung Công ước đã được thực hiện từ trước đây, khi Việt Nam ký kết tham gia Công ước (ngày 22-11-2007). Tuy việc ký tham gia chưa làm phát sinh trách nhiệm thành viên Công ước nhưng qua đó cũng thể hiện được tinh thần, ý thức trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm, thực thi quyền con người, quyền của người khuyết tật. Điều đó cũng phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với người khuyết tật. Sự kiện Việt Nam ký tham gia Công ước, toàn bộ tinh thần, nội dung quy định của Công ước đã ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam. Luật Người khuyết tật năm 2010 ra đời thay thế cho Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998 là bằng chứng thể hiện bước chuyển lớn lao, khá căn bản về nhận thức và hành động thực tế của Nhà nước và xã hội Việt Nam đối với vấn đề người khuyết tật. Đó là chuyển từ cách thức tư duy nhìn nhận vấn đề người khuyết tật như việc nhân đạo, từ thiện sang tư duy về người khuyết tật trên cơ sở quyền con người. Quá trình tổng kết, đánh giá các quy định và thực tiễn thi hành Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 để xây dựng và ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 cũng thể hiện rõ được quá trình rà soát, đánh giá hệ thống các quy định có liên quan đến người khuyết tật.(1) Ở thời điểm đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có báo cáo chính thức tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người khuyết tật(2) làm cơ sở cho việc nghiên cứu xác định nội dung chính sách pháp luật trên lĩnh vực người khuyết tật nói chung và việc xây dựng Luật Người khuyết tật nói riêng. Chính vì vậy, có thể nói, tuy chưa phê chuẩn Công ước nhưng với tinh thần là nước đã ký kết tham gia Công ước nên về cơ bản Luật Người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam được đánh giá là khá tương thích với Công ước về quyền của người khuyết tật(3).

Mặc dù vậy, từ xây dựng pháp luật đến thực tiễn thi hành Luật Người khuyết tật, tuy Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ so với giai đoạn trước, nhưng vẫn còn những điểm hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Trước yêu cầu phê chuẩn Công ước hiện nay, việc rà soát hệ thống pháp luật, đối chiếu, so sánh giữa Công ước với pháp luật Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện một cách nghiêm túc, khẩn trương. Kết quả công việc này là bước chuẩn bị tích cực, quyết định việc phê chuẩn để trở thành thành viên chính thức của Công ước. Việc rà soát cần bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ các quyền của người khuyết tật trên các lĩnh vực theo quy định của Công ước, lấy Luật Người khuyết tật năm 2010 làm trung tâm (luật chung) đồng thời phải bảo đảm phù hợp với nội dung lời văn và tinh thần, tư tưởng của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Xây dựng báo cáo tổng hợp kết quả rà soát, đánh giá tác động phê chuẩn Công ước.

Trước hết, việc xây dựng báo cáo rà soát, đánh giá tác động phê chuẩn thuộc về trách nhiệm của các cơ quan đề xuất và giải trình về việc phê chuẩn Công ước. Về rà soát, chỉ rõ những điểm còn chưa thống nhất giữa quan điểm, đường lối, chính sách chung của Đảng, Nhà nước về người khuyết tật với các quy định cụ thể của pháp luật người khuyết tật; chỉ rõ những điểm chưa thống nhất giữa các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành với Luật người khuyết tật, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật người khuyết tật(4). Tiếp đến, nội dung có ý nghĩa quan trọng ở đây là cần quán triệt tinh thần, nội dung các quyền của người khuyết tật được tuyên bố, ghi nhận trong Công ước để xem xét, đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về người khuyết tật. Đây là việc làm có vẻ như ngược lại so với quy trình trước đây khi chúng ta nghiên cứu, xem xét quy định của Công ước xem có tiến bộ (theo tinh thần nhân văn), có tương thích với các quy định của pháp luật Việt Nam không để quyết định kí tham gia. Đến nay, trước cam kết phê chuẩn để trở thành thành viên Công ước, chúng ta phải xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính pháp luật của Việt Nam, bởi lẽ đây là trách nhiệm của thành viên Công ước (nguyên tắc pacta sunt servanda). Theo nghiên cứu của mình, chúng tôi cho rằng các quy định và tinh thần chung của Công ước hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong việc chăm sóc, bảo vệ người khuyết tật. Một số quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thể hiện sự quan tâm, trợ giúp người khuyết tật cao hơn so với quy định của Công ước. Tuy vậy, một số nguyên tắc và quy định nêu trong Công ước lại chưa được khẳng định đầy đủ trong hệ thống pháp luật Việt Nam trên quan điểm tiếp cận toàn diện các quyền con người của người khuyết tật như: quyền bình đẳng, tiếp cận tư pháp, tiếp cận đời sống chính trị, cộng đồng, văn hoá, giải trí... Công ước có những quy định cao hơn pháp luật Việt Nam, đặc biệt là về quyền giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, giải trí, tiếp cận tư pháp, tham gia các hoạt động chính trị và cộng đồng. Vì vậy, khi đã phê chuẩn Công ước, trách nhiệm của Việt Nam là cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bảo đảm, bảo vệ đầy đủ, toàn diện, thống nhất các quyền của người khuyết tật theo quy định của Công ước.

Về đánh giá tác động của phê chuẩn, có thể được hiểu là những ảnh hưởng (dự kiến sẽ có) lên hệ thống pháp luật và các chính sách thực thi của Nhà nước cũng như các thiết chế xã hội liên quan khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước, chủ yếu là những nghĩa vụ thành viên Công ước đặt ra cũng như những trách nhiệm pháp lý quốc tế mà quốc gia phải gánh vác khi vi phạm các nghĩa vụ đó. Đối với quyền của người khuyết tật, trách nhiệm bảo đảm các quyền của họ theo tinh thần Công ước về cơ bản cũng tương đồng với quan điểm đường lối, chính sách, pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, vốn là nước nghèo lại phải chịu nhiều hậu quả của các cuộc chiến tranh ác liệt và cũng vừa mới trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình cách đây vài năm, trong điều kiện đó, nguồn lực để Nhà nước bảo đảm quyền được chăm sóc toàn diện, cao cấp đối với người khuyết như các nước phát triển còn nhiều khó khăn, hạn chế. Mặc dù vậy, với quan điểm đẩy mạnh xã hội hoá công tác chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật, phát huy tổng hợp các nguồn lực trong nước và quốc tế bên cạnh vai trò nòng cốt của Nhà nước, chắc chắn các quyền của người khuyết tật ở Việt Nam sẽ được bảo đảm một cách đầy đủ, vững chắc hơn. Trên phương diện các chính sách cụ thể, để bảo đảm đầy đủ, toàn diện các quyền của người khuyết tật trên các lĩnh vực như quy định của Công ước, Việt Nam cần lồng ghép quan điểm, tư tưởng chính sách pháp luật và tinh thần Công ước vào tất cả các lĩnh vực pháp luật, chứ không chỉ có những văn bản quy phạm pháp luật riêng về người khuyết tật. Đặc biệt, các quyền của người khuyết tật trên lĩnh vực chính trị (bầu cử), tham gia quản lý nhà nước, đời sống cộng đồng, quyền tiếp cận pháp luật, tư pháp, tiếp cận công lý, quyền giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng như quy định của Công ước cần được quan tâm đặc biệt. Cần khẳng định rằng đây không phải là những ưu tiên, từ thiện hay nhân đạo của Nhà nước, xã hội đối với người khuyết tật mà là trách nhiệm bảo đảm các quyền đó của người khuyết tật với tính cách là những quyền con người tự nhiên, vốn có, bình đẳng như những thành viên khác trong xã hội.

Đối với Việt Nam ở thời điểm hiện nay, chúng ta không nên chỉ xác định một cách chung chung là tinh thần của Công ước phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về người khuyết tật hoặc phù hợp với nền tảng Hiến pháp Việt Nam mà phải đi sâu xem xét, đánh giá tính chất, mức độ tương thích của từng nội dung cụ thể. Nếu đánh giá chỉ dừng lại ở chỗ tinh thần chung của Công ước là hoàn toàn tương thích với pháp luật người khuyết tật Việt Nam thì điều đó không thực tế và làm mất đi ý nghĩa lớn lao, sâu sắc của hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập về pháp luật. Việc xác định rõ những điểm còn có độ “vênh” hoặc “trễ” giữa pháp luật người khuyết tật Việt Nam so với tinh thần và nội dung các quy định của Công ước có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức về quyền của người khuyết tật và giúp cho các cơ quan nhà nước Việt Nam tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật người khuyết tật. Từ đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm chỉ rõ những lĩnh vực nào cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Công ước; Việt Nam có thể áp dụng trực tiếp được những quy định nào trong Công ước? Có vấn đề bảo lưu đối với điều khoản hay nội dung nào đó của Công ước hay không?(5)

Thực thi nghĩa vụ thành viên Công ước - thuận lợi, khó khăn và hướng giải quyết

Công ước được phê chuẩn là mục tiêu nhiệm vụ năm 2014 cũng là kết quả thực hiện cam kết của Việt Nam trước cộng đồng toàn thế giới và khu vực. Tại cuộc họp cấp cao liên chính phủ các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương, các chính phủ đã thông qua Tuyên bố cấp bộ trưởng về Thập kỷ của người khuyết tật châu Á và Thái Bình Dương (2013 - 2022) và Chiến lược Incheon "Hiện thực hoá quyền" cho người khuyết tật ở châu Á và Thái Bình Dương(6). Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc họp ở Geneva tháng 6 - 2014 cũng đã thông qua Báo cáo quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Việt Nam, trong đó vấn đề bảo đảm quyền của người khuyết tật là nội dung hết sức quan trọng và Việt Nam cam kết sớm phê chuẩn để trở thành thành viên chính thức của Công ước về quyền của người khuyết tật.

Tuy vậy, phê chuẩn Công ước, hài hòa hóa pháp luật quốc gia với Công ước cũng mới chỉ là bước khởi đầu cho cả quá trình “hiện thực hoá các quyền của người khuyết tật” như tinh thần mục tiêu tổng thể đã được đề ra trong Chiến lược Incheon nêu trên. Điều này liên quan đến trách nhiệm tổ chức thực hiện Công ước của các quốc gia thành viên, trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật người khuyết tật của Nhà nước cũng như việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức xã hội, trách nhiệm của cộng đồng xã hội, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và mỗi cá nhân.

Thuận lợi lớn nhất là dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống nhân ái, thương yêu đùm bọc, trợ giúp, nâng đỡ người khuyết tật. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo phát triển các quyền con người nói chung, trong đó có quyền của người khuyết tật. Hiến pháp mới đặt cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho sự nghiệp bảo đảm và phát triển các quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền của người khuyết tật. Với tư cách là thành viên Liên hợp quốc, thành viên Hội đồng nhân quyền thế giới, Việt Nam cam kết mạnh mẽ việc bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền của người khuyết tật. Công tác chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật vươn lên hoà nhập cuộc sống cộng đồng trong thời gian qua ở Việt Nam đã thu được nhiều kết quả khả quan, cuộc sống của nhiều người khuyết tật đã được cải thiện… Tất cả những yếu tố đó tạo thành điều kiện thuận lợi căn bản cho việc phê chuẩn và triển khai thực thi nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước. Nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn.

Khó khăn trước hết, đó là nhận thức chung của người khuyết tật, của xã hội về quyền con người nói chung, về vấn đề khuyết tật và quyền của người khuyết tật (quan điểm tư duy dựa trên quyền con người) vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ, phần đông người Việt Nam chưa quen với quan điểm tiếp cận này, thậm chí cả chính người khuyết tật cũng chưa thật sự hiểu biết, nắm bắt và tự ý thức được các quyền của mình. Tiếp đến, kiểu tư duy bao cấp vẫn còn dai dẳng, nhiều người vẫn quan niệm mọi gánh nặng, các nguồn lực đổ dồn hết lên vai ngân sách nhà nước mà chưa thấy được tiềm năng to lớn ở ngay chính xã hội. Chúng ta vẫn chưa quán triệt và hành động một cách thực chất bài học lấy dân làm gốc theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh “đem sức ta để giải phóng cho ta”. Từ cách tư duy như vậy, người ta dễ bị choáng ngợp với những “quyền quá cao” so với điều kiện bảo đảm từ nguồn tài chính ngân sách nhà nước. Cũng từ đó, nhà thiết kế chính sách pháp luật dễ từ chối việc bảo đảm quyền cho người khuyết tật theo tinh thần Công ước. Thật ra, quyền là giá trị chung, không phụ thuộc vào việc công nhận hay không công nhận nhưng việc thực thi bảo đảm quyền bằng pháp luật quốc gia lại có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng, nếu không thì quyền của người khuyết tật không thể được hiện thực hoá.

Khó khăn không nhỏ đối với Việt Nam khi trở thành thành viên Công ước là việc bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để khi triển khai thi hành Công ước cũng còn những điểm chưa thể phù hợp và khả thi do điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá có những nét đặc thù. Chẳng hạn, những vấn đề như khái niệm về người khuyết tật, quan điểm về bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật trên các lĩnh vực chính trị, tham gia quản lý nhà nước, vai trò của người khuyết tật trong cộng đồng xã hội, quyền tiếp cận giáo dục, văn hoá, thể thao, công trình công cộng, tiếp cận tư pháp…

Về điều kiện kinh tế - xã hội, đời sống người dân Việt Nam nói chung, đặc biệt là người khuyết tật còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; bản thân nhiều người khuyết tật cũng còn nặng tâm lý tự ti, nhận thức về xã hội và chính mình còn nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền, giáo dục về quyền con người, quyền công dân, về vấn đề khuyết tật ở Việt Nam chưa có hiệu quả cao, ảnh hưởng không nhỏ đến tính chủ động tích cực của cộng đồng, các nhóm xã hội, cũng như các cá nhân.

Gần đây, Chính phủ đã ban hành và triển khai thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020(7), trong đó có nêu các mục tiêu và giải pháp tương ứng. Tuy vậy, vì nhiều lý do khác nhau cả khách quan lẫn chủ quan, đến nay đã sắp hết thời hạn của giai đoạn 1 (2012 - 2015) nhưng nhiều mục tiêu đề ra khó có thể đạt được như mong muốn(8). Điều đó cho thấy, việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước để bảo đảm các quyền của người khuyết tật (hiện thực hoá các quyền) còn là vấn đề có nhiều thách thức cam go. Trong khi đó, với tư cách là thành viên chính thức của Liên hợp quốc, của Công ước về quyền của người khuyết tật Việt Nam phải tuân thủ cơ chế đánh giá định kỳ của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc(9) và cơ chế giám sát thực thi Công ước(10). Thật sự đây cũng là sức ép rất lớn từ góc độ trách nhiệm thành viên Công ước khi chúng ta đã chấp nhận sự ràng buộc đối với Công ước. Tuy nhiên, trong văn hoá chính trị - pháp lý quốc tế hiện nay, cơ chế giám sát, thúc đẩy quyền con người và quyền của người khuyết tật như vậy được coi là giá trị chung của cộng đồng nhân loại, mang tính tiến bộ, nhân văn cao cả.

Để phát huy các yếu tố thuận lợi trong nước cũng như quốc tế, khắc phục những khó khăn nhằm hiện thực hoá quyền của người khuyết tật, khi Việt Nam trở thành thành viên Công ước, chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Một là, sớm hoàn thiện chính sách pháp luật người khuyết tật Việt Nam trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như tinh thần Công ước về quyền của người khuyết tật. Chính sách, pháp luật người khuyết tật là những chủ trương, nguyên tắc chủ đạo của Nhà nước về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và các giải pháp thực hiện các chủ trương, nguyên tắc đó. Vai trò của chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị - pháp lý để soạn thảo, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật. Chính sách, pháp luật người khuyết tật phải đặt trong tổng thể hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước và là bộ phận không thể tách rời của toàn bộ chính sách pháp luật nói chung. Mặt khác, tư tưởng, nguyên tắc chính sách, pháp luật người khuyết tật cũng phải được lồng ghép sâu sắc trong nội dung chính sách pháp luật của tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Hai là, cần nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ các quy định của Công ước để tiếp nhận, nội luật hoá một cách đầy đủ, toàn diện các quyền của người khuyết tật theo lộ trình thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đồng thời quán triệt đầy đủ nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước để sớm xác định chủ động việc thực thi nghiêm chỉnh các nghĩa vụ này.

Ba là, phát huy quan hệ hợp tác quốc tế tốt đẹp, hiệu quả giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên Công ước, với các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, nhất là vai trò tích cực của các tổ chức vì và của người khuyết tật ở các quan hệ trong nước cũng như quốc tế.

Bốn là, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về quyền con người, quyền của người khuyết tật nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vấn đề này. Tinh thần chung và các quy định cụ thể của Công ước về quyền của người khuyết tật phải được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cộng đồng xã hội, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, các cán bộ công tác xã hội về người khuyết tật./.

----------------------------------------------

( ) TS. Trần Hữu Trung trong bài “Kinh nghiệm tổ chức thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và một số kiến nghị” đã viết: “… hệ thống các văn bản pháp luật về người tàn tật còn chưa đồng bộ, chưa tiếp cận được Công ước về quyền của người khuyết tật, chưa quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ và dựa trên nhu cầu của người tàn tật. Các quy định bị lạc hậu, không phù hợp với tình hình mới, đồng thời cũng còn những vấn đề mới nảy sinh chưa được đề cập... Những quy định về chính sách y tế, giáo dục, dạy nghề, lao động việc làm, tiếp cận công trình công cộng, công nghệ thông tin và chính sách trợ cấp chưa khoa học, không đồng bộ, chưa tạo điều kiện phù hợp cho người tàn tật”. Nguồn: http://nccd.molisa.gov.vn; truy cập ngày 12-9-2014.

(2) Xem: Báo cáo tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản liên quan của Bộ Lao động thương binh và xã hội số 62/BC-LĐTBXH, ngày 15-7-2009. Nguồn: http://dphanoi.org.vn; truy cập ngày 12-9-2014.

(3) Xem: Tờ trình của Chính phủ số 168/TTr-CP, ngày 10-10-2009 về Dự án Luật Người tàn tật.

(4) Chẳng hạn, Luật Người khuyết tật năm 2010 ghi nhận quyền được trợ giúp pháp ýí của người khuyết tật nhưng Luật Trợ giúp pháp lý ban hành trước đó (năm 2006) chưa ghi nhận quyền này, việc tổ chức thi hành trên thực tế một thời gian cũng có những lúng túng, vướng mắc; các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý cũng giải quyết tình hình theo tinh thần Luật Người khuyết tật nhưng như vậy cũng chưa thoả đáng về thứ bậc văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tương xứng với một quyền năng rất quan trọng của người khuyết tật.

(5) Xem: Chính phủ, Báo cáo giải trình về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT, số 266/CP-BC, ngày 29-7-2014.

(6) Chiến lược Incheon cung cấp cho khu vực châu Á và Thái Bình Dương và trên thế giới, với vòng đầu tiên đã nhất trí, mục tiêu phát triển toàn diện của người khuyết tật khu vực. Được biên soạn trong hơn hai năm với tham vấn của các chính phủ và các tổ chức xã hội liên quan, Chiến lược Incheon bao gồm 10 mục đích, 26 mục tiêu và 62 chỉ số. Nguồn: http://www.dphanoi.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=4018; truy cập ngày 14-9-2014.

(7) Xem: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1019/2012/QĐ-TTgngày 5-8-2012, phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020.

(8) Chẳng hạn, mục tiêu đề ra đến năm 2015 ít nhất 50% công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề, công trình văn hoá, thể dục thể thao; nhà chung cư bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật; Ít nhất 50% người khuyết tật có nhu cầu tham gia giao thông được sử dụng phương tiện giao thông bảo đảm quy chuẩn kĩ thuật về giao thông tiếp cận hoặc dịch vụ trợ giúp tương đương.

(9) Cơ chế kiểm điểm định kì phổ quát (UPR) theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 60/251, ngày 3-4-2006, về thành lập Hội đồng nhân quyền.

(10) Cơ chế báo cáo của quốc gia thành viên trước Ủy ban về quyền của người khuyết tật người khuyết tật theo quy định tại các điều 34, 35 Công ước về quyền của người khuyết tật.