TCCS - Nhận thức sâu sắc những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng đến việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Trong điều kiện hiện nay, Đảng và Nhà nước ta coi tham nhũng là một “quốc nạn” và công cuộc phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị.

Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng 

Hiến pháp năm 1992 đã quy định về nhiệm vụ chống tham nhũng như sau: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) xác định các hành vi được coi là tham nhũng; các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phòng, chống tham nhũng. Bộ luật Hình sự và Luật Phòng, chống tham nhũng đã xác định các hành vi tham nhũng là tội phạm hình sự và những hình phạt tương ứng.

Sau 6 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, KTNN đã tiến hành kiểm toán 903 cuộc kiểm toán (tính đến hết năm 2012), qua kiểm toán đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 121.100 tỷ đồng. Đã phát hiện và đề xuất bổ sung, sửa đổi nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội.
Với địa vị pháp lý là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng. Những cơ quan này bao gồm: Cơ quan Thanh tra nhà nước, Cơ quan điều tra, Kiểm toán Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân và Tòa án Nhân dân. Vai trò của KTNN trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, KTNN là công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài chính ngân sách thông qua việc công khai kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức, các cấp ngân sách. Đây là cơ sở cho hoạt động giám sát của các đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và của công dân đối với công tác quản lý tài chính ngân sách, đặc biệt là các nguồn lực tài chính nhà nước.

Thứ hai, KTNN là công cụ quan trọng để phát hiện những hiện tượng, những dấu hiệu tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật trong quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài sản nhà nước... Trên cơ sở đó, KTNN kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật. Trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng có dấu hiệu tội phạm ở các đơn vị được kiểm toán, KTNN lập và chuyển hồ sơ kiến nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét, xử lý về hình sự đối với những cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; các cơ quan bảo vệ pháp luật có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ để giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và phải thông báo kết quả giải quyết cho KTNN.

Thứ ba, trên cơ sở tính độc lập trong hoạt động kiểm toán, KTNN có thể chủ động xây dựng kế hoạch kiểm toán hướng vào những lĩnh vực có khả năng phát sinh tham nhũng, lãng phí lớn, những vấn đề bức xúc được dư luận xã hội quan tâm, nhằm giúp ngăn chặn hành vi tham nhũng. Mặt khác, từ tổng kết thực tiễn hoạt động kiểm toán, đặc biệt là lĩnh vực tài chính nhà nước, KTNN có thể đề xuất với Nhà nước các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp để góp phần phòng, chống tham nhũng.

Thực tiễn hoạt động kiểm toán nhà nước những năm qua cho thấy, hằng năm KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán tập trung vào những lĩnh vực trọng tâm, dễ xảy ra thất thoát, tham nhũng, lãng phí, như đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thu - chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại, với phương châm phòng là chính. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán, đôn đốc thu hồi nhanh chóng, dứt điểm tiền, tài sản của Nhà nước bị thất thoát. Qua kiểm toán, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc; trong đó, riêng năm 2012, KTNN đã chuyển hồ sơ 4 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ (là năm có số vụ nhiều nhất từ trước đến nay). 

Tuy nhiên, khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN chưa đầy đủ và đồng bộ, tồn tại lớn nhất hiện nay là địa vị pháp lý của cơ quan KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước như khuyến cáo của Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme Audit Institutions - INTOSAI) và thông lệ các nước trên thế giới nên không tránh khỏi khó khăn khi xác định vị trí pháp lý, xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN; việc khai thác, sử dụng kết quả kiểm toán phục vụ cho công tác quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát nhìn chung còn hạn chế; cơ chế phối hợp công tác giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát chưa thật hiệu quả, đôi khi còn trùng lặp, chồng chéo. Hiện chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc thông báo cho các cơ quan chức năng và KTNN kết quả điều tra, xử lý vụ việc. 

Những tồn tại nêu trên đã ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, đặc biệt là hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. 

Thực hiện tốt vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng thành các quy định của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý trong việc phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, cần thực hiện tốt các nội dung sau đây:

Một là, bổ sung quy định về địa vị pháp lý KTNN trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đặt ra yêu cầu: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”. Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Mục 2.7 - Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam) đã khẳng định rõ: “Nghiên cứu việc bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”. Đây là căn cứ quan trọng để xem xét, bổ sung vào Hiến pháp quy định về KTNN, nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của KTNN, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Quán triệt các quan điểm của Đảng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung thêm một chương mới (Chương X quy định về các thiết chế độc lập); trong đó, có 01 điều quy định về KTNN như sau:

“Điều 122 (mới)

1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

2. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định”.

Đồng thời bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc hội liên quan đến tổ chức, hoạt động của KTNN (ở Chương V quy định về Quốc hội) như việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN; KTNN chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; mối quan hệ giữa KTNN với các cơ quan của Quốc hội, thẩm quyền của KTNN trong việc trình dự án luật ra trước Quốc hội...

Các quy định trên đây của Dự thảo Hiến pháp đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển KTNN, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI trong phần những nội dung cơ bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (mục 7) đã khẳng định: “... nghiên cứu việc bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”. Đồng thời, những quy định về KTNN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc kiểm toán được ghi nhận trong các văn kiện của Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao, của Hội đồng Liên hợp quốc và thông lệ quốc tế:

- Tuyên bố Li-ma và Tuyên bố Mê-hi-cô là những văn bản quan trọng của Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao. Các tuyên bố này đã nêu các nội dung cần quy định trong Hiến pháp là việc thành lập và tính độc lập của cơ quan kiểm toán tối cao; tính độc lập của nhân viên cơ quan kiểm toán tối cao: “Việc thành lập cơ quan kiểm toán tối cao và mức độ độc lập cần thiết của nó phải được quy định trong hiến pháp; quy định chi tiết cần được thể hiện trong luật. Cụ thể, phải bảo đảm sự bảo vệ đầy đủ về pháp lý của tòa án tối cao chống lại sự can thiệp của bên ngoài vào tính độc lập và chức năng kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao” (Điều 5, mục II, Tuyên bố Li-ma).

“Sự độc lập của cơ quan kiểm toán tối cao không thể tách rời khỏi sự độc lập của nhân viên của nó. Nhân viên được hiểu là những người phải đưa ra quyết định đại diện cho cơ quan kiểm toán tối cao và giải trình các quyết định đó với bên thứ ba, bên thứ ba là thành viên của ban lãnh đạo tập thể hay người đứng đầu cơ quan kiểm toán tối cao nếu tổ chức theo chế độ thủ trưởng. 

Sự độc lập của nhân viên phải được bảo đảm bởi hiến pháp. Cụ thể, quy trình miễn nhiệm cũng phải được quy định trong hiến pháp và không được ảnh hưởng đến tính độc lập của nhân viên. Phương thức bổ nhiệm và bãi nhiệm nhân viên tùy thuộc vào cơ cấu hiến pháp của mỗi quốc gia” (Điều 6, mục II, Tuyên bố Li-ma). 

- Ngày 22-12-2011, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết A/66/209 về “Thúc đẩy tính hiệu lực, trách nghiệm giải trình, tính hiệu quả và minh bạch của quản lý công bằng cách tăng cường các cơ quan kiểm toán tối cao”, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong gần 60 năm hoạt động của INTOSAI. Theo Nghị quyết quan trọng này, lần đầu tiên Đại hội đồng Liên hợp quốc công nhận hoàn toàn tính độc lập của cơ quan kiểm toán tối cao: “Các cơ quan kiểm toán tối cao chỉ có thể hoàn thành trách nhiệm của mình một cách khách quan và hiệu quả khi các cơ quan này độc lập với đối tượng kiểm toán và được bảo vệ chống lại ảnh hưởng bên ngoài” và ghi nhận tầm quan trọng của các cơ quan kiểm toán tối cao trong việc thúc đẩy tính hiệu lực, trách nhiệm giải trình, hiệu quả và tính minh bạch của quản lý công, giúp thực hiện các mục tiêu và ưu tiên phát triển quốc gia cũng như các mục tiêu phát triển quốc tế, gồm cả Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Đồng thời, Nghị quyết cũng kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hợp quốc áp dụng các nguyên tắc hoạt động mà INTOSAI đã đề ra trong Tuyên bố Li-ma và Mê-hi-cô cho phù hợp cơ cấu của quốc gia mình.

- Ở hầu hết các nước tồn tại cơ quan KTNN, dù là các nước đã thành lập cơ quan KTNN từ rất lâu hay ở các nước mới thành lập cơ quan KTNN, như các nước Đông Âu, Liên bang Nga, Trung Quốc..., những vấn đề cơ bản về địa vị pháp lý, tính độc lập của cơ quan KTNN đều được quy định trong hiến pháp của mỗi nước. Theo thống kê của INTOSAI, trong 113 nước thực hiện nghiên cứu (không tính các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) thì có 79 nước (chiếm 70% các nước thực hiện nghiên cứu) địa vị pháp lý và tính độc lập của cơ quan KTNN được quy định trong hiến pháp; tất cả các nước thuộc EU đều quy định địa vị pháp lý, tính độc lập của KTNN trong hiến pháp. 

Nội dung phổ biến của những quy định về KTNN trong hiến pháp của các nước là:

Xác định địa vị pháp lý của KTNN trong hệ thống các cơ quan nhà nước: Hiến pháp của các nước đều quy định về vị trí của cơ quan KTNN trong mối quan hệ với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có ba mô hình phổ biến về vị trí của cơ quan KTNN là: KTNN trực thuộc quốc hội, KTNN trực thuộc chính phủ và KTNN độc lập với cả quốc hội và chính phủ. Điểm đáng lưu ý là, đa số các nước thuộc khối ASEAN tổ chức theo mô hình KTNN độc lập với ngành lập pháp và hành pháp.

- Xác định nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kiểm toán của KTNN là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của KTNN.

- Quy định thẩm quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm và nhiệm kỳ Tổng KTNN.

- Quy định trách nhiệm của Tổng KTNN trong việc báo cáo kết quả kiểm toán với quốc hội và công bố công khai theo quy định của pháp luật.

Về kỹ thuật lập hiến: Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, các quy định về thiết chế KTNN có thể được quy định tại một chương, mục, phần riêng hoặc xếp vào mục chung các thiết chế độc lập hoặc nằm trong cùng chương với cơ quan thuộc nhánh quyền lực mà KTNN trực thuộc. Việc quy định trong hiến pháp cụ thể đến đâu là tùy thuộc vào ý chí của nhà lập hiến, song, nguyên tắc độc lập và tối cao trong kiểm toán của cơ quan KTNN vẫn là nội dung hiến định phổ biến nhất.

Hai là, bổ sung nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng của KTNN trong Luật Kiểm toán nhà nước và quy định đầy đủ trách nhiệm phòng, chống tham nhũng của KTNN trong Luật Phòng, chống tham nhũng.

Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý một số vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng chưa quy định rõ vai trò, trách nhiệm của KTNN; trách nhiệm của cơ quan điều tra, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc thông báo kết quả xử lý với KTNN, nhất là những vụ việc không xử lý, đã làm giảm hiệu lực của kiến nghị kiểm toán trong phòng, chống tham nhũng.
Trước khi có Luật Phòng, chống tham nhũng, trách nhiệm của KTNN, của các cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện qua hoạt động kiểm toán chưa được quy định cụ thể. Luật Phòng, chống tham nhũng được ban hành đã có nhiều quy định nhằm tăng cường trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, KTNN, điều tra, viện kiểm sát, tòa án trong phòng, chống tham nhũng. Để nâng cao vai trò, trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng, cần bổ sung nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng vào Điều 15 của Luật KTNN với nội dung như sau: “Phòng ngừa, phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.

Ngoài ra, cần quy định rõ trách nhiệm của KTNN trong Luật Phòng, chống tham nhũng như sau: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, KTNN có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm toán nhằm phòng ngừa, phát hiện và phối hợp xử lý hành vi tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm xử lý theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho KTNN; trường hợp không xử lý thì phải thông báo và nêu rõ lý do với KTNN.

Ba là, đổi mới tư duy trong chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của KTNN.

Đổi mới nhận thức và chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, thực hiện bước chuyển mạnh mẽ từ tư duy bị động sang chủ động, chú trọng cung cấp kịp thời hồ sơ cho các cơ quan điều tra xem xét, xử lý khi nhận thấy đối tượng kiểm toán có dấu hiệu vi phạm phạm luật. KTNN xác định, hoạt động kiểm toán như là khâu điều tra cơ bản cho cơ quan chức năng, kết luận cuối cùng là của cơ quan có thẩm quyền về tư pháp. Tăng cường phối hợp, có cơ chế theo dõi, phản hồi thông tin về kết quả điều tra sau khi KTNN gửi hồ sơ nhằm giúp cho công tác phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao hơn. Các cơ quan điều tra khi nhận được thông tin, hồ sơ vụ việc cần phải có cơ chế phản hồi lại để KTNN biết kết quả xử lý. Điều này góp phần tạo sự phối hợp giữa KTNN và các cơ quan chức năng khác trở nên chặt chẽ hơn, cũng như tạo sự công khai, minh bạch trong việc thực hiện các chế tài về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó, KTNN chú trọng tăng cường thực hiện các giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong chính nội bộ hoạt động của ngành thông qua việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát của các cấp, xử lý nghiêm các vi phạm, công khai kết quả xử lý để mỗi cá nhân và tập thể cùng rút kinh nghiệm.

Kế hoạch của KTNN là, ngoài việc kiểm toán thường xuyên hằng năm ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, tập trung xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm toán trung hạn giai đoạn 2013 - 2015, đẩy mạnh kiểm toán hoạt động, đánh giá hiệu quả, hiệu lực Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, kiểm toán lĩnh vực đầu tư công, sử dụng vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2012 - 2015, lĩnh vực quản lý tiền và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; kiểm toán một số lĩnh vực trọng điểm, nhạy cảm: lĩnh vực quản lý sử dụng đất gắn với các dự án phát triển nhà và đô thị, kinh doanh bất động sản, quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản...

Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý.

Để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa KTNN, cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý, cần xây dựng văn bản phối hợp liên tịch giữa KTNN với các cơ quan nêu trên, nhằm quy định rõ:

- Phạm vi mối quan hệ phối hợp giữa KTNN, cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý. 

- Nội dung mối quan hệ phối hợp trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý.

- Hồ sơ vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý hình sự. 

- Thủ tục giao nhận hồ sơ vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý. 

- Trách nhiệm của cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong việc thông báo kết quả xử lý cho KTNN.

Năm là, nâng cao năng lực đội ngũ công chức, kiểm toán viên nhà nước.

Xây dựng đội ngũ công chức, kiểm toán viên nhà nước (KTVNN) bảo đảm yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức, KTVNN có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, chuyên nghiệp, tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán. Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTVNN. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm Quy chế hoạt động kiểm toán, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật để công tác kiểm toán đi vào kỷ cương, nền nếp, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng lòng tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với KTNN./.