TCCSĐT - Sáng 13-6, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Tọa đàm khoa học với chủ đề “Đồng bằng sông Cửu Long: Nước là nguồn chiến lược”, nhằm giới thiệu kết quả nghiên cứu của Dự án “Hệ thống thông tin liên quan đến nước nhằm phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long” (Dự án WISDOM). Tham dự tọa đàm có hơn 50 đại biểu là các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực này.

 

 Toàn ảnh buổi Tọa đàm


Phát biểu khai mạc, Tiến sĩ Võ Công Nguyện, Quyền Viện trưởng, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ nhấn mạnh: Nguồn nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã, đang mang lại nhiều lợi ích to lớn cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, thủy sản của vùng, nhưng trong những năm gần đây, tài nguyên nước ở vùng này bị đe dọa bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan và đã gây nên nhiều hệ quả không tốt cho vấn đề dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2009 - 2013, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phối hợp với Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức mà đại diện cho hai chính phủ là Trung tâm tư vấn phát triển Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu phát triển Đại học Bonn đã tổ chức khảo sát, nghiên cứu và đánh giá về thực trạng cơ sở dữ liệu về nguồn nước, hệ thống thủy lợi, biến đổi khí hậu,… tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua và nêu ra những kiến giải thích hợp trong công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước ở đây một cách tốt nhất. Đó là Dự án WISDOM, thu hút 18 cơ quan chuyên ngành của hai nước tham gia.

Tiếp đó, trong phần báo cáo về kết quả, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thế Cường, Trung tâm tư vấn phát triển Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, người trực tiếp thực hiện Dự án WISDOM, cho rằng: Nguy cơ đe dọa đến an ninh nguồn nước ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ gia tăng gấp nhiều lần khi có sự tác động của biến đổi khí hậu. Các dự án thủy điện, công trình khai thác nguồn nước không được quy hoạch, xây dựng một cách khoa học... cũng là nguyên nhân gây mất an ninh nguồn nước. Qua các nghiên cứu, khảo sát của Dự án đã cho thấy, do các yếu tố tự nhiên hoặc yếu tố con người cùng tác động dẫn đến dấu hiệu tài nguyên nước của vùng đang bị suy thoái cả về số lượng và chất lượng, đồng thời có sự thay đổi động thái của dòng chảy theo mùa.

 

 Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thế Cường báo cáo kết quả của Dự án WISDOM


Trao đổi, thảo luận tại buổi Tọa đàm, nhiều ý kiến cho rằng: những kết quả đạt được từ Dự án WISDOM có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, đáng chú ý là việc quy hoạch hệ thống thủy lợi ở đây chưa thật sự đồng bộ, một số nơi chưa chú trọng đến sinh kế của người dân. Trong khi tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự ô nhiễm nguồn nước đang và sẽ là những thử thách rất lớn uy hiếp sự phát triển kinh tế - xã hội, khiến sự phát triển nền nông nghiệp của vùng có thể bị mất tính bền vững. Nhiều nhà khoa học cũng bày tỏ các quan ngại về thực trạng sử dụng tài nguyên nước thiếu bền vững mà tác động trực tiếp là sinh kế của đại bộ phân cư dân nông thôn bị ảnh hưởng trầm trọng. Chẳng hạn: một nghiên cứu tại Cần Thơ vào năm 2010 có 86 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, tăng gấp 9 lần trong vòng 4 năm; tại Long An hiện có 30 khu công nghiệp và 40 cụm công nghiệp (tổng diện tích 15.138,6 ha) đã thu hẹp sinh kế của phần lớn cư dân nông nghiệp hiện hữu, đồng thời cũng liên tục gây ô nhiễm nguồn nước mà đáng kể nhất là hiện tượng rò rỉ nước thải ra đường thoát nước, từng nhiều lần bị cơ quan chức năng xử phạt hành vi gây ô nhiễm. Với thực trạng nêu trên, các cơ quan tham gia Dự án WISDOM cũng nêu lên những thách thức trong quản lý nguồn nước ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, như nước dùng cho tưới tiêu và nuôi trồng thủy hải sản dự báo sẽ giảm xuống tới năm 2020; nguy cơ nhà máy thủy điện phát triển ồ ạt kèm theo các hệ quả môi trường, xã hội, biến đổi khí hậu; biến đổi sự hình thành nguồn nước ngầm; hoạt động đối phó với lũ lụt, nước biển dâng…

Cùng với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hữu Quang còn làm rõ hơn: thực tế ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua cho thấy, việc sử dụng tràn lan các loại phân hóa học trong phát triển nông nghiệp, cùng với xây dựng đê bao ngày càng nhiều (nhưng thiếu tính khoa học) đã dẫn đến nguồn nước ô nhiễm bị tích tụ, làm cho đất bị bạc màu. Khi đất bạc màu thì người nông dân phải sử dụng phân bón, tuy nhiên, nếu sử dụng phân bón không khoa học thì sẽ gây ô nhiễm nguồn nước. Trải qua 6 năm thực hiện Dự án WISDOM, trong tham luận “Xem xét lại công tác quản lý tài nguyên nước ở đồng bằng sông Cửu Long: Khía cạnh xã hội của một phương pháp tiếp cận”, nghiên cứu sinh Simon Benediker, đại diện Trung tâm Nghiên cứu phát triển Đại học Bonn nhận định: sinh kế của người dân nông thôn tại đồng bằng sông Cửu Long hiện có mối tương quan gắn chặt với các tài nguyên đất và nước, vì nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của người dân địa phương. Dù các khu công nghiệp ở đây chưa nhiều nhưng bước đầu đã tác động đến nguồn nước trên nhiều khía cạnh, như: nhiều cơ sở sản xuất có vị trí dọc theo những nơi có nguồn nước đã xả chất thải, nước ô nhiễm ra kênh rạch, hoặc tận dụng kênh rạch như là phương tiện giao thông đường thủy và sử dụng cả trong sản xuất nước đá khối, nước đóng chai. Mặc dù, cùng với việc ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quy hoạch thủy lợi, đồng bằng sông Cửu Long đã quan tâm nạo vét kênh mương; công tác quản lý tài nguyên nước từng bước được chú trọng, nhưng trên thực tế vấn đề này vẫn còn không ít khó khăn, ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng.

Để quản lý nguồn nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long một cách hiệu quả, bền vững, các đại biểu cho rằng: các cơ quan quản lý tài nguyên và cộng đồng địa phương cần có sự liên kết, đầu tư hiệu quả, nhất là trong việc kiểm soát, quy hoạch, khai thác, phân phối, sử dụng và bảo vệ môi trường nước; nâng cao ý thức cộng đồng và các nhà quản lý trong việc giữ gìn môi trường, bảo vệ rừng ngập mặn, sử dụng nước tiết kiệm, chống các biểu hiệu làm suy thoái nguồn nước; trong công tác quy hoạch nguồn nước phải thực hiện một cách đồng bộ; chú trọng tăng cường hợp tác khoa học với các tổ chức trong và ngoài nước để chia sẻ thông tin và kiến thức, tìm ra những giải pháp hợp lý trong khai thác, bảo vệ nguồn nước một cách bền vững./.