Thành phố Kon Tum chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số

Nguyễn Thanh Mân Thành ủy viên, Chánh văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân thành phố Kon Tum
17:19, ngày 17-05-2012
TCCS - Nhờ thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, ngày càng được nâng cao, giảm dần cách biệt về hưởng thụ vật chất, tinh thần giữa các vùng, địa phương. Môi trường xã hội lành mạnh, phát triển không ngừng… tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương tăng tiến tập trung hướng đến xây dựng thành phố Kon Tum đạt 70% tiêu chí của đô thị loại II (miền núi) vào năm 2015.

Thành phố Kon Tum có 21 đơn vị hành chính, với tổng số dân gần 150 ngàn người, trong đó DTTS chiếm 29%, gồm các dân tộc: Xê Đăng, Gia Rai, BahNar, Giẻ Triêng và Rơ Ngao. Toàn thành phố có 61 thôn, làng đồng bào DTTS (10 làng ở nội thành, 51 làng ở ngoại thành). Với nhiều thành phần sinh sống đã tạo nên những cái riêng có của thành phố Kon Tum trong sinh hoạt, sản xuất của đời sống hằng ngày, cũng như việc triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 

Việc chăm lo, phát triển các làng đồng bào DTTS ở thành phố Kon Tum luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu của cấp ủy, chính quyền các cấp. Thành phố đã chỉ đạo và triển khai thực hiện đẩy mạnh sản xuất hàng hóa trong các thôn, làng nhằm tăng thu nhập, nâng cao mức sống, tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, đồng thời chú trọng công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, phát huy bản sắc văn hóa trong vùng đồng bào DTTS; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nhân dân, Mặt trận và đoàn thể của thôn, làng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thống nhất chỉ đạo mỗi cấp ủy phải có sự thống nhất cao trong lãnh đạo, điều hành. Cán bộ phải thật sự sát dân, gần dân, hiểu dân và lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân để giải quyết kịp thời. Cơ quan phụ trách thôn, làng của thành phố không làm thay nhiệm vụ của địa phương mà chỉ giữ vai trò định hướng phát triển, cung cấp thông tin, phối hợp hướng dẫn, xây dựng triển khai mô hình về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số ở địa phương. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán ở khu dân cư làm nòng cốt trong công tác vận động quần chúng ở cơ sở.

Với định hướng và quyết tâm chỉ đạo trên, đến nay, sản xuất nông nghiệp trong các làng đồng bào DTTS đang đi vào sản xuất hàng hóa, cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã có sự chuyển dịch đúng hướng. Các hộ đồng bào DTTS trồng và trực tiếp quản lý 7.128,27 ha cao-su, bời lời, cà-phê, mía...; 3.416 hộ di dời chuồng gia súc ra khỏi gầm nhà sàn; 5.010/6.860 hộ đồng bào DTTS thực hiện giãn dân, tách hộ, lập vườn, đạt 88,2%. Thành phố đã đầu tư khôi phục, phát triển các làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Đến nay, toàn bộ hệ thống giao thông bảo đảm thông suốt, xe cơ giới đến được các thôn, làng thuận lợi. Điện lưới quốc gia đã được kéo đến 100% trung tâm cụm xã và hầu hết các thôn, làng đồng bào DTTS, tỷ lệ hộ dùng điện đạt gần 100%,…

Hằng năm, đều triển khai kịp thời các chương trình, chính sách hỗ trợ cho đồng bào DTTS như hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi, phân bón, đầu tư kết cấu hạ tầng, hỗ trợ tiền vải mặc, dầu hỏa, tiền điện thắp sáng, trợ giá trợ cước giống cây trồng, vận chuyển phân bón,… Từ năm 2009 đến nay, tổng kinh phí dành cho các chương trình mục tiêu quốc gia là gần 10 tỉ đồng. Bên cạnh đầu tư phát triển về kinh tế, thành phố cũng quan tâm phát triển lĩnh vực văn hóa xã hội đối với các làng đồng bào DTTS. 60% số hộ DTTS được công nhận gia đình văn hóa; có 37/61 thôn, làng đồng bào DTTS được công nhận danh hiệu làng văn hóa; có 55 nhà rông văn hóa, 87 đội cồng chiêng, 56/61 thôn, làng có cổng chào; các thôn, làng không còn tình trạng thiếu lớp học, chất lượng giáo viên tại các thôn, làng ngày càng được nâng lên; có gần 20% giáo viên của thành phố là người DTTS tại chỗ (1 giáo viên được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú); 100% số thôn làng có nhân viên y tế.

Song song với phát triển kinh tế - xã hội, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở thôn, làng từng bước được củng cố, kiện toàn, hoạt động có nề nếp. Đến nay, có 58 cán bộ là người DTTS đang công tác tại các xã, phường, trong đó đảng viên là 33 đồng chí. Tại 61 thôn, làng đồng bào DTTS có 61 già làng, 57 thôn trưởng và 58 thôn phó, 47 công an viên là người DTTS; xóa “trắng đảng viên” ở 5 thôn, làng, kết nạp 70 đảng viên mới người DTTS.

Nhìn chung, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS trên địa bàn được cải thiện đáng kể. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả quan trọng; những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được quan tâm giữ gìn và phát huy; cơ cấu cây trồng, vật nuôi có bước chuyển dịch, phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; hệ thống chính trị ở cơ sở, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số được củng cố và từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn, rút dần khoảng cách về đời sống giữa vùng đồng bào DTTS với vùng thành thị.

Từ kết quả và thực tiễn triển khai thực hiện các chính sách đối với đồng bào DTTS thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

1 - Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách đối với đồng bào DTTS, phải chọn những khâu đột phá, những mặt cơ bản, bức xúc để tập trung sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tháo gỡ những khó khăn giải quyết dứt điểm không hô hào chung chung.

2 - Gắn với trách nhiệm cụ thể từng tổ chức, đơn vị và từng cán bộ, đảng viên trong việc triển khai thực hiện chính sách đối với đồng bào DTTS. Thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm nhân rộng mô hình, lấy hiệu quả thực hiện làm tiêu chí xét thi đua khen thưởng cho tổ chức, đơn vị, cá nhân hằng năm.

3 - Phải chú trọng công tác vận động quần chúng, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ và đảng viên “ nói phải đi đôi với làm”; công tác tuyên truyền, giáo dục thuyết phục phải làm thường xuyên, liên tục, cụ thể, trực quan; cán bộ, đảng viên làm công tác vận động quần chúng phải am hiểu phong tục, tập quán, nghe được, nói được tiếng dân tộc địa phương, sâu sát gần gũi với đồng bào dân tộc thì mới có khả năng hoàn thành được nhiệm vụ.

4 - Chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên DTTS để thu hút họ vào làm việc tại các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế trang trại, các làng nghề trong các làng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển. Quan tâm giải quyết việc làm cho những hộ có đất thuộc diện thu hồi để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và những hộ hiện không có đất hoặc thiếu đất sản xuất.

5 - Chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thôn, làng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chọn những cán bộ có uy tín bố trí các chức vụ bí thư chi bộ, thôn trưởng, trưởng các đoàn thể khu dân cư, kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ, công chức ở cơ sở.

6 - Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng để hoạt động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Tiếp tục xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động.

Phát huy những thành quả đã đạt được, thời gian tới, thành phố Kon Tum tiếp tục triển khai thực hiện tốt hơn nữa các chính sách đối với đồng bào DTTS theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ thành phố Kon Tum. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo đồng bào DTTS bình quân 5%/năm; 100% số hộ chăn nuôi phải có chuồng trại, không nhốt gia súc dưới gầm nhà; 100% số hộ được dùng điện và nước hợp vệ sinh; bình quân mỗi hộ đồng bào DTTS có từ 0,5 ha trở lên trồng các cây công nghiệp dài ngày; 100% số thôn, làng có nhà rông và tụ điểm sinh hoạt văn hóa; 80% số hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa và 100% thôn, làng đạt tiêu chuẩn khu dân cư tiên tiến trở lên; 100% số thôn, làng có đảng viên và có chi bộ... Hiện nay, thành phố đã và đang tập trung thực hiện các giải pháp sau:

1 - Tăng cường công tác tuyên truyền trong hệ thống chính trị từ thành phố đến các xã, phường, các thôn, làng về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ xây dựng các thôn, làng đồng bào DTTS vững mạnh toàn diện; thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước. Coi đó là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể ở địa phương.

2 - Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Chú trọng việc cung cấp, chuyển giao, hướng dẫn các hộ đồng bào DTTS sản xuất những loại giống mới có năng suất, chất lượng, dễ tiêu thụ, lợi nhuận cao; phát huy các nguồn lực tại chỗ về đất đai, lao động, tiền vốn trong dân cư. Khuyến khích các mô hình nông - lâm kết hợp để bảo vệ môi trường. Khai thác những tiềm năng về nguồn nước, đất đai trong vùng bán ngập lòng hồ thủy điện để đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và trồng cây ngắn ngày nâng cao thu nhập cho người dân.

3 - Hoàn thành việc quy hoạch chi tiết đề án xây dựng nông thôn mới; xây dựng và thực hiện đề án quy hoạch giãn dân tách hộ lập vườn các làng đồng bào nội thành; thành lập các khu dân cư mới. Đối với các làng vùng ngoại thành, tiếp tục rà soát xây dựng phương án giãn dân, tách hộ, lập vườn bảo đảm ổn định đời sống cho nhân dân. Hằng năm, bố trí ngân sách phù hợp để đầu tư phát triển hạ tầng các làng đồng bào DTTS. Phấn đấu xây dựng từ 2 đến 3 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới.

4 - Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho đồng bào DTTS; hằng năm dành ngân sách để hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất, xóa nghèo bền vững; chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số để thu hút vào làm việc tại các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế hộ, nhóm hộ, tổ hợp tác, các làng nghề trong các làng đồng bào DTTS.

5 - Tăng cường hơn nữa sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đồng bào DTTS. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Chú trọng công tác truyền thông dân số, KHHGĐ nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trong các làng đồng bào DTTS. Đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc nhất là nghệ thuật cồng chiêng và hình thức sinh hoạt nhà rông. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các phong trào thi đua yêu nước ngay tại cơ sở. Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống truyền thanh xã, phường; củng cố, kiện toàn các đội thông tin lưu động, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng dân tộc thiểu số, các chuyên mục pháp luật trên hệ thống truyền thanh thành phố.

6 - Chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thôn, làng, chọn những cán bộ có uy tín bố trí các chức vụ bí thư chi bộ, thôn trưởng, trưởng các đoàn thể khu dân cư, kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ, công chức ở cơ sở. Tiếp tục xóa thôn, làng chưa có đảng viên và chưa có tổ chức đảng./.