TCCS - Đảng bộ Sóc Trăng có 14 đảng bộ trực thuộc (10 đảng bộ huyện, thành phố và 4 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy) với 513 tổ chức cơ sở đảng; trong đó, có 182 đảng bộ cơ sở, 331 chi bộ cơ sở; số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở là 2.064. Toàn Đảng bộ có 24.145 đảng viên, trong đó, có 2.915 đảng viên người dân tộc Khmer, chiếm tỷ lệ 12,07% tổng số đảng viên.

Kết quả bước đầu qua hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội

Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2005 - 2010, ba năm qua (2006 - 2008), Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng đã phấn đấu, đạt được những thành tích quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân trong 3 năm qua là 13,27%. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị được nâng lên.

Thành tích đạt được có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do Đảng bộ thường xuyên quan tâm chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), nhất là công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer, đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 05-4-2002 của Tỉnh ủy khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer”, Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 06-1-2003 của Tỉnh ủy khóa X “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên”, Đảng bộ tỉnh đã tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, củng cố hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc Khmer; trong đó, chú trọng xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer bảo đảm chất lượng.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn quan tâm lãnh đạo, tăng cường công tác giáo dục chính trị tưtưởng, tạo điều kiện để đảng viên học tập lý luận chính trị, thường xuyên bồi dưỡng nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và nhân dân, gắn với giáo dục truyền thống cách mạng, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là tích cực thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, góp phần nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị, uy tín của cán bộ, đảng viên trước nhân dân; thường xuyên giáo dục, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Công tác xây dựng, củng cố TCCSĐ được các cấp ủy quan tâm nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên. Trước hết tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ phù hợp với tình hình địa phương.

Qua khảo sát thực tế, các chi bộ, đảng bộ cơ sở vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer tổ chức sinh hoạt đúng định kỳ, nội dung được chuẩn bị chu đáo, theo đúng Hướng dẫn số 04-HD/BTCTU, ngày 02-6-2006 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy “Về nội dung sinh hoạt đảng ở chi bộ”; chất lượng sinh hoạt được nâng lên, thể hiện tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, khắc phục tình trạng bỏ sinh hoạt một vài kỳ trong năm hoặc sinh hoạt không đầy đủ nội dung.

Đối với các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách như: đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống, xóa đói, giảm nghèo thông qua các mô hình, cách làm cụ thể, hiệu quả; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh, bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở,...

Theo kết quả đánh giá, phân loại TCCSĐ của Đảng bộ tỉnh năm 2008, số TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh chiếm tỷ lệ 85,71%, số TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt tỷ lệ 9,8%, số TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ đạt tỷ lệ 3,47%, số TCCSĐ yếu kém chỉ có 1,02%. Kết quả phân loại TCCSĐ nơi có đông đảng viên vùng đồng bào dân tộc Khmer cụ thể như sau:

Trong số 8 đảng bộ xã ở Sóc Trăng có trên 50% số đảng viên là người dân tộc Khmer, có 7 đảng bộ xã đạt tiêu chuẩn đảng bộ trong sạch, vững mạnh (chiếm 87,5%), 1 đảng bộ xã hoàn thành nhiệm vụ. Trong 25 xã, phường có đông đồng bào dân tộc Khmer (chiếm trên 50% so với dân số chung), có 18 đảng bộ xã đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh (chiếm 71%).

Thực hiện Đề án kết nạp đảng viên vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2015 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, công tác kết nạp đảng viên là người dân tộc Khmer có chuyển biến tích cực từ khâu quy hoạch tạo nguồn gắn với thử thách qua các phong trào đến phân công đảng viên bồi dưỡng đối tượng. Trong 3 năm 2006 - 2008, toàn Đảng bộ tỉnh đã kết nạp được 682 đảng viên là người dân tộc Khmer, chiếm 13,21% tổng số đảng viên mới kết nạp.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer trong thời gian qua đã từng bước được nâng lên về trình độ học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, tổ chức và điều hành xử lý công việc. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều có lập trường chính trị vững vàng; giữ gìn được đạo đức, có lối sống trong sạch, lành mạnh; am hiểu, sâu sát địa bàn phụ trách, có nhiều đổi mới, tiến bộ trong phong cách làm việc, giữ được mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Thông qua hoạt động thực tiễn, nhiều cán bộ, đảng viên đã tích lũy được kinh nghiệm trong lãnh đạo và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.

Công tác quy hoạch cán bộ người dân tộc Khmer được quan tâm thực hiện và bước đầu đã đạt được kết quả thiết thực, số lượng cán bộ người dân tộc Khmer được đưa vào quy hoạch ban chấp hành, ban thường vụ cấp ủy và các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015 bình quân tăng 8,27% so với nhiệm kỳ 2005 - 2010. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, một số địa phương, đơn vị đã chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, luân chuyển và bố trí, sắp xếp cán bộ người dân tộc Khmer phù hợp với từng chức danh đã được quy hoạch. Qua đó, góp phần khắc phục dần tình trạng bị động, hẫng hụt trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc.

Thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đa dạng hóa công tác tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, hội viên, lựa chọn các hình thức tuyên truyền phù hợp với điều kiện và tâm lý đối tượng, như: tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức các cuộc đối thoại, tọa đàm, các cuộc thi tìm hiểu nhân các ngày lễ lớn của đất nước, thi tìm hiểu về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Vận động các tầng lớp nhân dân triển khai thực hiện có hiệu quả các phong trào, các cuộc vận động lớn do Đảng, Nhà nước phát động, nhất là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Chú trọng thực hiện phương châm hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, chỉ đạo cán bộ tăng cường đi cơ sở, khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng. Quan tâm công tác xây dựng lực lượng nòng cốt, cá nhân tiêu biểu trong các tôn giáo, vùng đồng bào dân tộc. Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Những hạn chế cần khắc phục và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn

Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer trong thời gian qua của Đảng bộ Sóc Trăng là rất quan trọng, tạo tiền đề cho sự phát triển chung của tỉnh, cũng như của vùng đồng bào dân tộc Khmer. Tuy nhiên, công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào Khmer cũng còn những yếu kém, đó là: năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCSĐ còn hạn chế, nhất là việc nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; trình độ, năng lực lãnh đạo, điều hành và kỹ năng nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa đạt chuẩn chức danh theo quy định của Bộ Nội vụ; phương pháp công tác, lề lối làm việc tuy có tiến bộ nhưng chuyển biến còn chậm; công tác kiểm tra, giám sát đảng viên ở một số nơi chưa được thực hiện thường xuyên.

Từ những kết quả đạt được cũng như từ những hạn chế cần khắc phục trong công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer trong thời gian qua, Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng rút ra một số kinh nghiệm:

Một là, xác định đúng và tổ chức thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Xây dựng nhiệm vụ chính trị đúng là khâu đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo của TCCSĐ. Nhiệm vụ chính trị của đảng bộ cơ sở rất toàn diện, nhưng đối với các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách như: đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống, xóa đói, giảm nghèo thông qua các mô hình, cách làm cụ thể, hiệu quả; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh, bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở,... Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị nêu trên, quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện phải kết hợp nhiều biện pháp: giáo dục thuyết phục, nêu gương và bằng công tác tư tưởng, tổ chức. Phát huy đúng mức vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng của quần chúng.

Hai là, chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của đảng ủy và đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Chất lượng hoạt động của đảng ủy cơ sở phụ thuộc vào chất lượng của từng đảng ủy viên trong đảng bộ. Chính vì vậy, phải xây dựng đội ngũ cấp ủy gồm những đồng chí có phẩm chất chính trị, có kiến thức và năng lực thực tiễn, có đạo đức, lối sống lành mạnh, có uy tín đối với nhân dân. Vấn đề có tính quyết định là chọn đúng bí thư, phó bí thư đảng ủy, ngoài những tiêu chuẩn chung, có kiến thức tương đối toàn diện, còn phải am hiểu công tác Đảng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và gắn bó với nhân dân; xem xét, bố trí bí thư, phó bí thư đảng ủy hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân xã là người dân tộc sẽ có thuận lợi hơn trong lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Theo đánh giá, phân loại năm 2008, trong số 8 đảng bộ xã ở Sóc Trăng có trên 50% số đảng viên là người dân tộc Khmer, có 7 đảng bộ xã đạt tiêu chuẩn đảng bộ trong sạch, vững mạnh (chiếm 87,5%), 1 đảng bộ xã hoàn thành nhiệm vụ. Trong 25 xã, phường có đông đồng bào dân tộc Khmer (chiếm trên 50% so với dân số chung), có 18 đảng bộ xã đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh (chiếm 71%).

Ba là,
công tác xây dựng TCCSĐ được tiến hành một cách toàn diện, gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; củng cố, kiện toàn các tổ chức khác trong hệ thống chính trị với các phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở; kết hợp với sự chỉ đạo của cấp trên với tinh thần tự lực tự cường, năng động sáng tạo của đảng bộ cơ sở, phát động phong trào quần chúng tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; kết hợp xây dựng TCCSĐ với xây dựng, củng cố các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.

Đẩy mạnh công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer

Xuất phát từ đặc điểm Sóc Trăng là tỉnh nông nghiệp, điểm xuất phát về kinh tế thấp, có gần 30% dân số là đồng bào dân tộc Khmer, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh xác định phải tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer, để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu và tình hình thực tiễn của địa phương với mục tiêu chung là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cơ sở vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer; xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nơi có đông đồng bào Khmer có năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phấn đấu đến năm 2010, có trên 85% số đảng bộ xã, phường, thị trấn (kể cả chi bộ trực thuộc đảng ủy) có đông đồng bào dân tộc Khmer đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, không có cơ sở đảng yếu kém; trên 50% số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ, dưới 2% đảng viên vi phạm tư cách; tỷ lệ đảng viên là người dân tộc Khmer chiếm từ 14% - 15%; 80% cán bộ chủ chốt là người dân tộc Khmer tốt nghiệp phổ thông trung học; từ 50% - 60% có trình độ chuyên môn trung cấp, cao đẳng, đại học và trên 80% có trình độ trung cấp lý luận chính trị. Đối với công chức chuyên môn có 75% đạt tiêu chuẩn theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16-01-2004 của Bộ Nội vụ.

Để thực hiện hoàn thành mục tiêu nêu trên, Đảng bộ tỉnh tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X, Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, gắn chặt với thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 05-4-2002 của Tỉnh ủy khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer”.

- Quan tâm kiện toàn, sắp xếp mô hình tổ chức đảng một cách đồng bộ giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, gắn công tác xây dựng TCCSĐ với thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương. Tiếp tục thực hiện Kế hoạch về củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị cơ sở nơi có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo.

- Chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy, tăng cường và nâng cao năng lực, hiệu quả công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; giữ vững nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động trong đảng bộ; nâng cao vai trò tập thể lãnh đạo, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của cá nhân trên lĩnh vực được phân công phụ trách.

- Tập trung chỉ đạo nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ, đảng viên hằng năm, bảo đảm phản ảnh đúng thực chất chất lượng. Đề cao trách nhiệm và tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Làm tốt công tác kết nạp đảng viên, đối với địa bàn có đông đồng bào dân tộc Khmer, mỗi năm kết nạp 1 - 2 đảng viên mới là người dân tộc trở lên ở một ấp, khóm. Gắn công tác xây dựng TCCSĐ với đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở.

- Tiếp tục thực hiện Kế hoạch quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc Khmer của tỉnh đến năm 2015. Quan tâm chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, ra sức xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống trong sạch, gương mẫu, có năng lực lãnh đạo, gắn bó mật thiết với nhân dân.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp, chỉ đạo sâu sát cơ sở, kịp thời giúp đỡ cơ sở tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.

Xây dựng TCCSĐ nói chung, TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer nói riêng đáp ứng yêu cầu tình hình mới là vấn đề có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng, đòi hỏi từng cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu với quyết tâm chính trị cao, thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, góp phần tạo chuyển biến, tiến bộ mới về chất lượng hoạt động của TCCSĐ vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tỉnh./.