Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo tinh thần nghị quyết đại hội XI của Đảng: Quan điểm, thực trạng và giải pháp
Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo của nước ta. Bối cảnh mới tạo cơ hội thuận lợi để giáo dục, đào tạo nước ta tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục, đào tạo; tạo điều kiện để đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục, đào tạo, tiến tới một nền giáo dục, đào tạo tiên tiến hiện đại đáp ứng nhu cầu của xã hội và từng cá nhân người học. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, cùng với Chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam trong thời kỳ dân số vàng là tiền đề cơ bản để chúng ta thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, như: khoảng cách phát triển kinh tế, khoảng cách về giáo dục, đào tạo giữa nước ta và các nước ngày càng mở rộng; hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh những vấn đề mới, như nguy cơ xâm nhập của văn hóa và lối sống không lành mạnh làm xói mòn dần bản sắc văn hóa dân tộc, sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục, đào tạo kém chất lượng từ bên ngoài có thể gây rủi ro lớn đối với giáo dục, đào tạo, sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền có nguy cơ dẫn đến tình trạng thiếu bình đẳng trong tiếp cận giáo dục của người dân... Những vấn đề đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới cả về triết lý, lý luận cũng như những giải pháp thực tiễn để phát triển giáo dục, đào tạo. Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục, đào tạo đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với phát triển giáo dục, đào tạo, trong khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo có hạn, tạo sức ép lớn cho sự phát triển giáo dục, đào tạo.
Tình hình đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước ta những năm qua
Kết quả tích cực
Hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển chung của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo ngày càng tăng, trang thiết bị trường học được tăng cường. Quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp, học nghề dài hạn và sinh viên đại học tăng liên tục với mức trung bình 10%/năm. Chất lượng dạy nghề có nhiều chuyển biến tích cực. Đổi mới giáo dục, đào tạo đang được tích cực triển khai ở mọi cấp học, từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập đã thu được kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, phổ thông và mầm non đã được thành lập và hoạt động bước đầu có hiệu quả. Về thành tựu của phát triển giáo dục, đào tạo, Đại hội XI của Đảng đánh giá "Đổi mới giáo dục đạt được một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc"(1). Sự ổn định chính trị và những thành quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Quốc hội và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp, đặc biệt là sự quan tâm, tham gia đóng góp của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, cùng với lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đã phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học của dân tộc để tạo nên những thành quả giáo dục to lớn, góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh, chính trị của đất nước.
Yếu kém, bất cập
Bên cạnh những thành tích và tiến bộ đã đạt được, giáo dục và đào tạo nước ta những năm qua vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập kéo dài, rất chậm được khắc phục. Trong đó, đáng quan tâm nhất là chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo thấp và công tác quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo còn nhiều yếu kém, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đánh giá "Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội"(2).
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập kéo dài nêu trên có nhiều, trong đó phải kể đến: trên thực tế chưa thực sự thấm nhuần và thể hiện đầy đủ quan điểm “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”; tư duy về giáo dục, đào tạo còn chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo dục và đào tạo phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, bị chi phối bởi tâm lý khoa cử, sính bằng cấp và chịu nhiều tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, cũng như sức ép khi nhu cầu học tập của nhân dân và đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của ngành và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Không có quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước, của các ngành và địa phương làm căn cứ thực tiễn của việc xác định mục tiêu, kế hoạch, quy mô, cơ cấu và chất lượng giáo dục, đào tạo.
Những yếu kém của giáo dục, đào tạo nước ta trên đây nếu không sớm được khắc phục, không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của giáo dục, đào tạo, mà còn góp phần làm gia tăng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Quan điểm và cơ sở để tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo
Đại hội XI của Đảng xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội"(3).
Những quan điểm chỉ đạo trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay cần triển khai theo những quan điểm chỉ đạo chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, là quốc sách hàng đầu. Do vậy, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, huy động cả hệ thống chính trị, phát huy đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo;
Thứ hai, đổi mới giáo dục, đào tạo phải nhằm mục tiêu xây dựng nền giáo dục có tính dân tộc, hiện đại, quán triệt nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển đất nước, nhất là nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để mọi người dân đều có thể đi học và học tập suốt đời;
Thứ ba, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn, cho giáo dục phổ cập và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, với tiến bộ khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế;
Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo phải trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, định hướng xã hội chủ nghĩa. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước hợp tác với các đối tác nước ngoài trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo.
Những cơ sở để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay
Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo, về sự nghiệp trồng người là căn cứ, là cơ sở hàng đầu cho việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng. Triết lý, tư tưởng giáo dục, đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứa đựng tinh hoa của giáo dục thế giới, như triết học giáo dục đạo làm người của Khổng Tử, triết học xã hội (giáo dục tinh thần công dân) từ thời cổ đại, giáo dục nhân văn - từ thời Phục hưng, thời phương Tây bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá (từ thế kỷ XVIII), giáo dục tự nhiên, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giáo dục thực hành. Trong triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể chỉ ra những nội dung cơ bản sau: Chống chính sách ngu dân; Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; Xây dựng nền giáo dục của một nước độc lập; Đào tạo những công dân hữu ích cho nước nhà; Phát triển các năng lực sẵn có của trẻ em; Trọng dụng nhân tài; Giáo dục, dạy làm người; Dạy tốt, học tốt; Học đi đôi với hành. Những quan điểm, tư tưởng nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo là cơ sở, kim chỉ nam cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển giáo dục, đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay.
Yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở quan trọng để tiến hành đổi mới giáo dục, đào tạo. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo phải gắn chặt với quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế. Mục đích trực tiếp của giáo dục, đào tạo là tạo ra nguồn lực lao động và quản lý phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm để một quốc gia phát triển kinh tế theo con đường “phát triển rút ngắn”. Chất lượng giáo dục, đào tạo phải đặt bên cạnh yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển khoa học công nghệ trong thời đại kinh tế tri thức đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
Xu thế phát triển của thời đại, nhu cầu học tập của nhân dân, truyền thống giáo dục, đào tạo của đất nước là cơ sở không thể bỏ qua khi tiến hành đổi mới giáo dục, đào tạo của nước ta hiện nay. Do vậy, đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước ta cần phải nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, yêu cầu của đất nước, nhu cầu của nhân dân, truyền thống hiếu học, trọng học của dân tộc; phải tiếp biến và phát huy được truyền thống lịch sử giáo dục Việt Nam, nhất là những thành tựu của nền giáo dục, đào tạo cách mạng từ năm 1945 đến nay.
Các giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục được hiểu là đổi mới hệ thống giáo dục (cả về hệ thống cơ cấu mục tiêu giáo dục, hệ thống mạng lưới trường lớp, quy mô của hệ thống giáo dục, chất lượng của hệ thống giáo dục, các chủ trương của giáo dục Việt Nam); đổi mới về mục tiêu, nội dung, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp; đổi mới các cấp bậc học và các loại hình giáo dục ; đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật của hoạt động giáo dục, đào tạo; đổi mới quá trình giáo dục; đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Trên thực tế đây là một cuộc cách mạng giáo dục trong tất cả hệ thống giáo dục quốc dân và tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống ấy. Khâu then chốt của tiến trình đổi mới ấy được Đại hội XI của Đảng xác định là đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý…
Để thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nước ta theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo định hướng "coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh” ở tất cả các cấp. Đối với bậc đại học là tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát huy tư duy sáng tạo, rèn kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. Trong quá trình giáo dục phải kiên trì nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Việc thay đổi phương pháp dạy và học là một công việc to lớn, khó khăn, phức tạp, tác động đến tất cả các khâu từ nội dung, chương trình, sách giáo khoa, trình độ đào tạo, thi cử, đến đánh giá, kiểm định chất lượng. Đây là công việc liên quan tới tất cả các bộ phận cấu thành của giáo dục nên cần có sự đổi mới đồng bộ từ nội dung đến phương pháp để đạt được mục đích đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên, người thày đóng vai trò quyết định đối với thành bại của sự nghiệp giáo dục, đào tạo ở mọi thời đại. Vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục các yếu kém trong bố trí, sắp xếp và sử dụng để sớm xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục. Mặt khác, phải có chế độ chính sách, đặc biệt là chính sách về lương, thưởng, thăng tiến, phát triển chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ giáo viên. Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã cải tiến rất nhiều chế độ chính sách cho giáo viên, nhưng các chính sách, chế độ hiện hành đối với giáo viên vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến hệ quả là nhiều giáo viên không thể toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, sự nghiệp trồng người của đất nước được.
Thứ ba, về đổi mới quản lý giáo dục cả về cán bộ quản lý và cơ chế quản lý. Cần tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ trong việc thực hiện chiến lược, chính sách phát triển giáo dục; tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục theo mô hình giáo dục mở, mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học và ngành học; đổi mới căn bản về tư duy, về cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy tối đa tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động cùng tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập của toàn hệ thống trong quá trình phát triển. Đổi mới căn bản chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ quản lý giáo dục theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực hoạt động thực tiễn.
Thứ tư, hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về giáo dục, đặc biệt là việc xây dựng luật về giáo dục đại học. Thừa nhận, đối xử bình đẳng với loại hình cơ sở giáo dục là công lập và tư thục, xây dựng mạng lưới giáo dục theo hướng phân tầng để thích ứng với đòi hỏi thực tiễn hiện nay của phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước, cũng như từng địa phương, từng khu kinh tế, đặc biệt phân tầng trong giáo dục đại học.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập. Chuyển từ chủ trương “giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người phải học tập suốt đời”. Xã hội hoá giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển giáo dục, đào tạo. Để làm được việc này trước hết cần mở rộng cơ hội học tập cho mọi người thông qua việc phát triển hình thức giáo dục thường xuyên. Mở rộng và hoàn thiện các hình thức huy động cộng đồng tham gia quản lý nhà trường và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục... tạo điều kiện để các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đóng góp công sức, trí tuệ vào quá trình ra quyết sách và xây dựng chính sách, xây dựng chương trình sách giáo khoa, đánh giá chất lượng giáo dục, giảng dạy, nghiên cứu tại các nhà trường và cơ sở giáo dục. Tiếp tục mở rộng các trường ngoài công lập, thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, tạo điều kiện cho loại hình các trường này phát triển. Cùng với việc huy động sự đóng góp của nhân dân chủ yếu là đối với các gia đình có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi, cần bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hỗ trợ đối với học sinh nghèo và con em gia đình chính sách, con em gia đình nghèo học giỏi. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục, đào tạo, điều chỉnh cơ cấu phân bổ theo hướng không dàn trải và dành ưu tiên cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn.
Thứ sáu, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả cả về dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Ngăn chặn và chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, hiện tượng tiêu cực vào nhà trường. Khắc phục tình trạng chúng ta mới chỉ quan tâm đến dạy chữ, mà chưa quan tâm đến dạy người. Giáo dục gia đình không nên khoán hết cho xã hội và nhà trường. Thực sự coi trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm đào tạo những con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa hồng vừa chuyên.
Thứ bảy, đẩy mạnh công tác nghiên cứu đổi mới giáo dục, đào tạo; giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo. Phải thực hiện lộ trình đổi mới hệ thống giáo dục từ việc có kế hoạch tổ chức nghiên cứu, sau đó đưa ra Quốc hội quyết định và Bộ Giáo dục và Đào tạo thực thi. Thực hiện được lộ trình đó mới có thể tiếp tục xây dựng và phát triển lý luận về nền giáo dục Việt Nam giàu tính nhân dân, khoa học, dân tộc, hiện đại trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục, đào tạo của Đảng và Nhà nước, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Thường xuyên đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo. Làm sao để giáo dục tiến kịp với yêu cầu của thời đại và không lạc hậu so với tiến trình đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự giám sát của các đoàn thể nhân dân đối với tiến trình đổi mới giáo dục, đào tạo. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương tăng cường lãnh đạo công tác đổi mới giáo dục, đào tạo; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn giúp đỡ các cơ quan giáo dục trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo. Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tăng cường công tác lập pháp, giám sát và phản biện về giáo dục, nhằm thúc đẩy việc đổi mới giáo dục đi đúng hướng.
Như vậy, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động và phát triển của đất nước, là một trong những nhân tố cơ bản quyết định tương lai của dân tộc, là chìa khoá để mở ra tiềm năng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục để đào tạo những người lao động có tri thức, có tư duy độc lập, kết hợp tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ với tri thức khoa học xã hội nhân văn, phát triển tự do và toàn diện, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới thành công và hoàn thành từng bước mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
-------------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 153
Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Ma-lai-xi-a đầu tư tại Việt Nam  (29/09/2011)
Thủ tướng gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Hà Lan  (29/09/2011)
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam - một tất yếu lịch sử  (29/09/2011)
Cơ hội hợp tác đầu tư, giao thương và xuất khẩu hàng Việt Nam  (29/09/2011)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên