Yêu cầu và định hướng đổi mới thể chế trong phát triển Thủ đô Hà Nội
Hà Nội giữ một vị trí đặc biệt trong hệ thống đô thị của nước ta, không chỉ bởi vai trò là Thủ đô, mà còn là “Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước”(1). Thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, đóng góp quan trọng vào ngân sách quốc gia và là điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư ở trong nước và nước ngoài. Với hệ thống các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm công nghệ và sáng tạo, Hà Nội là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển tri thức của quốc gia; đồng thời, là cái nôi lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, di sản lịch sử và bản sắc dân tộc.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng ở cấp độ quốc gia, Hà Nội còn là hạt nhân trung tâm của vùng Thủ đô, có vai trò dẫn dắt và kết nối phát triển với các tỉnh, thành lân cận, như Phú Thọ, Bắc Ninh, Hưng Yên… Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Hà Nội được xác định là đầu tàu, động lực tăng trưởng và là trung tâm điều phối liên kết vùng, thúc đẩy sự phát triển cân bằng, bền vững giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Với vị thế và vai trò đó, yêu cầu đặt ra là Hà Nội cần có một hệ thống thể chế, pháp luật hiện đại, linh hoạt và mang tính đặc thù, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của Thủ đô trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các đô thị lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội, đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới mô hình quản trị theo hướng hiệu quả, linh hoạt và hiện đại. Những biến động nhanh chóng của kinh tế số, công nghệ, môi trường và cấu trúc xã hội đang đặt ra những thách thức mới, đòi hỏi hệ thống thể chế và pháp luật phải không ngừng hoàn thiện để thích ứng và dẫn dắt quá trình phát triển.
Thực tiễn cho thấy, hệ thống thể chế, pháp luật hiện hành còn tồn tại nhiều bất cập, cả ở phương diện nội dung lẫn tổ chức thực thi. Nhiều quy định còn chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các cấp và các lĩnh vực quản lý, gây khó khăn trong quá trình triển khai các dự án phát triển đô thị. Một số quy định pháp luật hiện nay chưa theo kịp thực tiễn phát triển nhanh và phức tạp của đô thị lớn như Hà Nội, đặc biệt trong các lĩnh vực, như quy hoạch, quản lý đất đai, đầu tư công, giao thông, bảo vệ môi trường hay chuyển đổi số. Tình trạng cứng nhắc trong phân cấp, phân quyền cũng đang làm hạn chế tính chủ động và sáng tạo của chính quyền đô thị.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, xác định một trong những quan điểm, mục tiêu quan trọng là: Tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế phát triển Thủ đô toàn diện, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế; kết hợp hài hòa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa giữ gìn bản sắc văn hóa với phát triển kinh tế và giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa; trong đó, văn hóa, con người vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, nguồn lực, động lực để phát triển Thủ đô.
Nghị quyết nêu rõ mục tiêu đến năm 2030, Thủ đô Hà Nội là thành phố văn hiến - văn minh - hiện đại; trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; hội nhập quốc tế sâu rộng, có sức cạnh tranh cao với khu vực và thế giới, phấn đấu phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực.
Thể chế, pháp luật trong phát triển đô thị - Một số nhận thức cơ bản
Thể chế là tổng thể các quy định, quy chuẩn, thiết chế chính trị, kinh tế, xã hội nhằm điều chỉnh hoạt động của Nhà nước, thị trường và các tổ chức trong xã hội. Hiểu một cách tổng quát, thể chế tạo nên “luật chơi” cho toàn bộ hệ thống, bảo đảm sự vận hành hiệu quả của bộ máy nhà nước cũng như sự phát triển hài hòa của xã hội.
Theo nghĩa rộng, thể chế không chỉ bao gồm luật pháp, mà còn bao gồm cả cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, quy trình ra quyết định và cách thức phối hợp giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội. Còn theo nghĩa hẹp, thể chế thường được hiểu là hệ thống luật pháp và các chính sách, quy định cụ thể điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp là tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống này bao gồm Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư và các văn bản hướng dẫn thi hành, được xây dựng theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất.
Trong tiến trình phát triển đất nước, đô thị hóa là một xu thế tất yếu, phản ánh sự vận động mạnh mẽ của nền kinh tế, sự chuyển dịch cơ cấu xã hội và nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Với Thủ đô Hà Nội, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước, thành phố đang trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ hướng tới đô thị hiện đại, bền vững và thông minh. Trong tiến trình này, thể chế và pháp luật đóng vai trò quyết định, tạo dựng nền tảng pháp lý vững chắc để Hà Nội khai thác tối đa tiềm năng, phát huy lợi thế, đồng thời kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro phát triển, như quá tải hạ tầng, gia tăng bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Cụ thể, vai trò của thể chế và pháp luật đối với Thủ đô Hà Nội được thể hiện qua các khía cạnh quan trọng sau:
Thứ nhất, tạo lập môi trường pháp lý ổn định, minh bạch.
Một môi trường pháp lý ổn định và minh bạch là điều kiện tiên quyết để giảm thiểu các rủi ro thể chế, đặc biệt trong bối cảnh Hà Nội tiếp tục thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư ở trong nước và nước ngoài. Khi các quy định pháp luật rõ ràng, thống nhất và dễ tiếp cận, nhà đầu tư sẽ có cơ sở vững chắc để hoạch định chiến lược dài hạn; từ đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Bên cạnh đó, sự minh bạch trong chính sách còn tạo dựng được lòng tin cho người dân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận các chính sách phát triển, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và khuyến khích sự tham gia tích cực của các chủ thể trong xã hội. Đây là yếu tố căn bản giúp Hà Nội xây dựng một cộng đồng phát triển đồng thuận và ổn định.
Thứ hai, điều tiết, phân bổ và khơi thông nguồn lực.
Thể chế và pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết, phân bổ nguồn lực tài chính, đất đai và đầu tư công - những yếu tố then chốt để Hà Nội phát triển đồng bộ và hiệu quả. Các quy định pháp luật về ngân sách, quản lý tài sản công và quy hoạch sử dụng đất giúp bảo đảm nguồn lực được sử dụng một cách hợp lý, minh bạch và tránh lãng phí.
Đặc biệt, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phân cấp, tự chủ tại các cấp chính quyền, cùng với việc loại bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, hiện tượng “xin - cho” trong quản lý đã tạo ra một môi trường vận hành năng động, sáng tạo và hiệu quả hơn. Điều này góp phần khai thác tối đa tiềm năng phát triển của Hà Nội; đồng thời, nâng cao chất lượng dịch vụ công và thu hút đầu tư.
Thứ ba, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Trong xu thế chuyển đổi số và phát triển đô thị thông minh, các quy định về khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), công nghệ số và mô hình thành phố thông minh là những điều kiện tiên quyết để Hà Nội tiến tới mô hình phát triển dựa trên tri thức và sáng tạo. Thể chế, pháp luật không chỉ bảo đảm tính hợp pháp và minh bạch trong triển khai các giải pháp công nghệ mới, mà còn thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Qua đó, Hà Nội không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý đô thị, mà còn phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, tạo ra các giá trị gia tăng cao và mở rộng cơ hội việc làm chất lượng, góp phần nâng cao vị thế của Thủ đô trên bản đồ kinh tế - công nghệ quốc gia và khu vực.
Thứ tư, bảo đảm công bằng xã hội và quyền con người.
Hệ thống luật pháp còn là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân, đặc biệt là những nhóm yếu thế trong xã hội, như người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật. Việc bảo đảm công bằng xã hội không chỉ là yêu cầu đạo đức, pháp lý, mà còn là yếu tố thiết yếu để duy trì ổn định xã hội và phát triển bền vững.
Thể chế, pháp luật góp phần xây dựng một xã hội văn minh, kỷ cương, hiện đại - nơi các quyền con người được tôn trọng, các giá trị công bằng và trật tự được củng cố, tạo nền tảng vững chắc để Thủ đô Hà Nội phát triển toàn diện, hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường.
Yêu cầu và định hướng đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp đối với Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn phát triển mới
Thủ đô Hà Nội đang bước vào một giai đoạn phát triển mang tính bước ngoặt, khi tổ chức thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị. Với vị thế là “Trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước”, Hà Nội phải đối mặt với những yêu cầu cao, đòi hỏi phải xây dựng và vận hành một môi trường pháp lý vượt trội, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và toàn diện.
Hà Nội không chỉ cần phát triển nội lực, mà còn phải là động lực lan tỏa, dẫn dắt sự phát triển của vùng Thủ đô, cũng như của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về một hệ thống thể chế, pháp luật không những phải tiên tiến, mà còn phải vượt trội, tạo lập sự khác biệt trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng quản lý đô thị.
Môi trường pháp lý này cần phải minh bạch, ổn định, đồng thời có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi trong nền kinh tế số, kinh tế xanh và các mô hình đô thị thông minh hiện đại. Đây là điều kiện tiền đề để Hà Nội phát huy tối đa tiềm năng, đồng thời kiểm soát và ứng phó hiệu quả với những thách thức phức tạp của đô thị lớn.
Hệ thống luật pháp phải thích ứng với xu thế chuyển đổi số, kinh tế xanh và phát triển bền vững. Trong bối cảnh thế giới và trong nước đang bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số sâu rộng, mô hình kinh tế xanh, kinh tế tri thức và phát triển bền vững trở thành định hướng chiến lược quốc gia, Hà Nội cần thiết phải xây dựng thể chế, pháp luật phù hợp, có tính đột phá, đủ sức dẫn dắt và thúc đẩy các sáng kiến đổi mới.
Thể chế này không chỉ là khung pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ số vào quản lý đô thị, mà còn phải hỗ trợ hiệu quả các chính sách phát triển năng lượng tái tạo, quản lý chất thải, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Sự tương thích và đồng bộ của pháp luật trong các lĩnh vực này sẽ tạo ra sức bật mạnh mẽ cho Thủ đô trong cuộc đua phát triển bền vững.
Để bảo đảm thể chế, pháp luật thực sự trở thành “bệ phóng” cho Thủ đô Hà Nội, quá trình đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc, bao gồm tính đồng bộ và nhất quán, khả thi và dễ thực thi, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền kinh doanh, cũng như sự thích nghi với đặc thù quản lý một đô thị lớn và phức tạp như Hà Nội; cụ thể là:
Thứ nhất, tính đồng bộ và nhất quán - nền tảng tạo lập sự ổn định và hiệu quả quản lý.
Đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp không đơn thuần là việc ban hành các văn bản quy phạm mới, mà còn đòi hỏi sự đồng bộ và nhất quán trong toàn bộ hệ thống luật pháp, chính sách quản lý đô thị.
Tính đồng bộ có thể hiểu là sự gắn kết chặt chẽ giữa các quy định, các lĩnh vực quản lý khác nhau nhằm tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, hoặc bỏ sót các vấn đề quan trọng. Tính nhất quán là bảo đảm các văn bản pháp luật có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương, từ luật đến các nghị định, thông tư, tạo ra một khung khổ pháp lý ổn định, rõ ràng.
Hà Nội là một đô thị lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và nhiều cấp chính quyền quản lý; vì vậy, nếu không có tính đồng bộ và nhất quán, việc thực thi pháp luật sẽ gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng “quy định mâu thuẫn”, làm giảm hiệu lực quản lý và gây khó khăn cho các chủ thể kinh tế - xã hội trong việc hiểu và tuân thủ pháp luật. Đồng thời, tính đồng bộ cũng thúc đẩy sự phối hợp giữa các ngành, lĩnh vực và các cấp chính quyền, giúp tạo ra một bức tranh quản lý đô thị hài hòa và có chiều sâu.
Thứ hai, khả thi và dễ thực thi - bảo đảm hiệu quả vận hành thể chế.
Một hệ thống luật pháp dù đầy đủ, đồng bộ nhưng thiếu tính khả thi và khó thực thi thì cũng không thể mang lại hiệu quả thực tế. Trong đổi mới thể chế, pháp luật cho Hà Nội, việc xây dựng các quy định phù hợp với thực tiễn, dễ áp dụng, có thể kiểm soát và giám sát là vô cùng quan trọng.
Tính khả thi có thể bao gồm việc quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia; đồng thời, thiết kế các cơ chế, thủ tục hành chính không quá phức tạp, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tuân thủ và thực hiện. Hơn nữa, pháp luật cần linh hoạt để thích ứng với điều kiện phát triển và những biến động của thực tế, tránh việc quy định cứng nhắc, thiếu tính cập nhật.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan thực thi pháp luật và cơ chế kiểm tra, giám sát phải được củng cố, nâng cao năng lực để bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm minh, kịp thời và công bằng. Việc này góp phần xây dựng niềm tin xã hội vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định và bền vững của đô thị.
Thứ ba, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp - trụ cột của một xã hội văn minh, phát triển.
Đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp cần đặt lợi ích của con người làm trung tâm. Bảo đảm quyền con người và quyền công dân không chỉ là trách nhiệm pháp lý, mà còn là nguyên tắc căn bản của một xã hội văn minh, dân chủ và tiến bộ. Ở đô thị lớn như Hà Nội, nơi có sự đa dạng về văn hóa, dân tộc, kinh tế và xã hội, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, là nhân tố quyết định đến sự ổn định xã hội.
Song song với đó, quyền kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần được tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối. Một môi trường pháp lý minh bạch, công bằng và thuận lợi sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất - kinh doanh, tạo động lực cho đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống. Quyền kinh doanh được bảo vệ đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tiếp cận thị trường, bình đẳng trong cạnh tranh và sự bảo vệ trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Việc đồng thời bảo đảm quyền con người và quyền kinh doanh cũng chính là cách thức cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, giàu bản sắc và hiện đại.
Thứ tư, hệ thống luật pháp phải thích nghi với đặc thù quản lý đô thị lớn như Thủ đô Hà Nội.
Hà Nội là một đô thị lớn với quy mô dân số hàng chục triệu người, địa bàn rộng lớn, đa dạng về chức năng kinh tế - xã hội và sở hữu nhiều giá trị văn hóa lịch sử đặc thù. Điều này đòi hỏi thể chế, pháp luật không thể được xây dựng theo cách “một khuôn khổ áp dụng chung” mà cần tính đến các đặc thù riêng biệt.
Thể chế cần phản ánh sự phức tạp trong quản lý quy hoạch không gian, phát triển hạ tầng đô thị, giao thông, môi trường, an ninh trật tự, quản lý dân cư đa dạng về dân tộc và tôn giáo; đồng thời, cần linh hoạt trong cơ chế phân cấp, ủy quyền, để các cấp chính quyền có thể chủ động trong việc ứng phó với các tình huống cụ thể, bảo đảm hiệu quả và tính kịp thời trong quản lý.
Việc xây dựng thể chế thích nghi với đặc thù còn là cách thức để khai thác các lợi thế văn hóa, lịch sử và con người Hà Nội; đồng thời, phát huy tối đa các nguồn lực xã hội trong phát triển đô thị. Đây là bước đi then chốt để biến Hà Nội trở thành một đô thị văn minh, hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc riêng biệt, hấp dẫn và đáng sống./.
----------------------------------------
(1) Xem: Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
Những kết quả tích cực trong công tác cải cách thủ tục hành chính ở thành phố Hà Nội thời gian qua  (30/10/2025)
Kinh nghiệm quốc tế và giá trị tham khảo đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ hiệu quả các điểm nghẽn thể chế để phát triển Thủ đô Hà Nội  (26/10/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm