Phát triển công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới
TCCS - Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận của tiềm lực quốc phòng, an ninh quốc gia, có vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để công nghiệp quốc phòng hoàn thành tốt việc bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho Quân đội và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, việc thực hiện mục tiêu xây dựng công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng cần được cân đối và có sự kết hợp hài hòa trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng là chủ trương chiến lược, luôn được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Trong thời kỳ đổi mới, nhất là từ Đại hội IX của Đảng đến nay, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam tự cường, hiện đại, lưỡng dụng được xác định là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011, của Bộ Chính trị, về “Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo” xác định, đưa công nghiệp quốc phòng thành một bộ phận quan trọng của công nghiệp quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tiếp tục xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng thành bộ phận quan trọng của tiềm lực quốc phòng, an ninh quốc gia, có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại; đồng thời, tăng tính lưỡng dụng trong đầu tư phát triển; kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất quốc phòng với kinh tế. Vấn đề này tiếp tục được khẳng định tại Đề án đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và nâng lên một tầm mức mới: “phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ cao, là bộ phận quan trọng và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, chế tạo được một số loại vũ khí có ý nghĩa chiến lược, từng bước bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang”(1).
Tiếp đó, ngày 26-1-2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26-1-2022, về “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, xác định xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; công nghiệp quốc phòng phải làm chủ được công nghệ tiên tiến, hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Những định hướng cơ bản về các vấn đề liên quan đến xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng cũng được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động, đề án thực hiện Nghị quyết. Tuy nhiên, để tổ chức triển khai thực hiện thành công các mục tiêu đề ra, cần có hệ thống giải pháp nhằm đạt được cả 2 tiêu chí “hiện đại” và “lưỡng dụng” trong phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam thời gian tới.
Về phát triển công nghiệp quốc phòng “hiện đại”
Những thành tựu đạt được qua các chặng đường phát triển của công nghiệp quốc phòng Việt Nam là vô cùng quan trọng, đóng góp hiệu quả cho các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, công nghiệp quốc phòng Việt Nam cơ bản bảo đảm tốt nhu cầu của lực lượng vũ trang, nhất là về vũ khí thông thường và một số loại vũ khí công nghệ cao. Tuy nhiên, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đòi hỏi quan tâm đầu tư phát triển hơn nữa đến công nghiệp quốc phòng để phục vụ quá trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện như hiện nay, đặc biệt là khi hội nhập quốc tế về công nghiệp quốc phòng được xác định là một kênh không tách rời của quá trình hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh, từng bước đi vào chiều sâu, ổn định, thực chất và hiệu quả, thì xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng hiện đại là tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển công nghiệp quốc phòng thế giới.
Muốn xây dựng công nghiệp quốc phòng hiện đại, phải vươn lên làm chủ thiết kế, công nghệ, chế tạo được các chủng loại vũ khí hiện đại cho các quân, binh chủng, có tính năng chiến thuật - kỹ thuật cao, như các loại vũ khí thông minh, vũ khí tích hợp hệ thống, vũ khí công nghệ cao..., đặc biệt là một số loại vũ khí chiến lược theo yêu cầu trang bị cho các lực lượng để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại. Để làm được điều này, phải có quyết tâm chính trị cao và có nhiều giải pháp thực thi hiệu quả, đặc biệt chú trọng phấn đấu đạt được tiêu chí “hiện đại” trong cả 3 yếu tố quan trọng nhất: tiềm lực khoa học - công nghệ, thể chế và nhân lực.
Về tiềm lực khoa học - công nghệ: Để sẵn sàng đối phó thắng lợi với vũ khí công nghệ cao của địch nếu xảy ra chiến tranh trong tương lai, bên cạnh yếu tố chính trị, tinh thần, con người và các yếu tố khác cấu thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thì việc làm chủ các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại là yêu cầu cấp thiết, khách quan. Chính vì vậy, ngay trong các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng ở các giai đoạn trước đây cũng đã xác định chủ trương và nhiệm vụ phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ của công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Trong thời gian tới, cần tiếp tục phấn đấu thực hiện một số nhiệm vụ trọng điểm mang tính đột phá, mũi nhọn để tiếp cận và làm chủ được các ngành công nghệ mới liên quan tới chế tạo vũ khí. Tập trung đầu tư sản xuất thành công các chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại và chiến lược, trong đó có những chủng loại “Made in Việt Nam” đạt trình độ tiên tiến, hiện đại tương đương so với thế giới và khu vực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội. Theo hướng này, cần ưu tiên ứng dụng hiệu quả các công nghệ nền tảng, các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện “đi tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực công nghệ quân sự đặc thù để tạo chuyển biến bước ngoặt về năng lực thiết kế - chế tạo các sản phẩm có tính đột phá về tính năng chiến thuật - kỹ thuật. Ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, lưỡng dụng, tiến tới làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi trong nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có hàm lượng công nghệ cao. Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế, chế tạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật, hoàn thiện cơ chế quản lý các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học - công nghệ về công nghiệp quốc phòng theo hướng đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đánh giá, phản biện; mở rộng phạm vi nội dung nhiệm vụ, tăng cường liên kết, phối hợp giữa các tổ chức ở trong và ngoài Quân đội. Đồng thời, tiếp tục hiện đại hóa các dây chuyền công nghệ hiện có trong sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng, phương tiện kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, thiết kế và thử nghiệm trong ngành công nghiệp quốc phòng.
Về thể chế: Đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, cụ thể và trực tiếp là đổi mới về thể chế, bao gồm cả tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, quy hoạch thế bố trí, cơ cấu lại... của ngành công nghiệp quốc phòng theo hướng tiên tiến, hiện đại là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Phát huy kết quả đạt được, cần đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về công nghiệp quốc phòng theo hướng đổi mới, hội nhập, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính... Hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý cần thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo, bảo đảm tinh, gọn, hiệu quả và phù hợp với đặc thù ngành công nghiệp quốc phòng. Cần tập trung đẩy nhanh việc xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các bước phát triển lâu dài của công nghiệp quốc phòng, trong đó phải cụ thể hóa được cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, huy động được nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn lực tài chính của quốc gia cho phát triển công nghiệp quốc phòng, tạo lập các cơ chế ưu tiên vượt trội để công nghiệp quốc phòng thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Đồng thời, mô hình doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng sắp tới phải được cơ cấu lại để thích ứng với các yêu cầu hội nhập vào cơ cấu phân công chuyên môn hóa, cơ chế quản lý của công nghiệp quốc gia, hội nhập quốc tế và đủ sức cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Quy hoạch thế bố trí tiềm lực công nghiệp quốc phòng phải được điều chỉnh phù hợp với định hướng bố trí lực lượng và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đồng thời bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa quốc phòng với kinh tế. Theo đó, các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt cần được tổ chức lại để vừa thực hiện nhiệm vụ sản xuất, vừa sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật theo chuyên ngành sản phẩm phù hợp với thế bố trí chiến lược quân sự, đáp ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Về nhân lực: Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, công nhân lành nghề chuyên ngành đặc thù công nghiệp quốc phòng tăng mạnh về số lượng và chất lượng, bước đầu làm chủ được các công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, vẫn thiếu những kỹ sư giỏi, chuyên gia đầu ngành và chưa có các tổng công trình sư trong những lĩnh vực vũ khí công nghệ cao. Công tác thu hút nhân tài vào làm việc trong công nghiệp quốc phòng có bước phát triển, nhưng chưa được như mong muốn. Đây là một điểm nghẽn cản trở quá trình làm chủ thiết kế - công nghệ liên quan tới vũ khí công nghệ cao và khả năng đóng góp của công nghiệp quốc phòng trong triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta. Do đó, ngoài các chế độ hỗ trợ hiện có, cần nghiên cứu ban hành chính sách, chế độ nhằm thu hút, đãi ngộ những người có trình độ, tay nghề cao và những người tham gia vào các dự án, công trình, nhiệm vụ đặc biệt. Đồng thời, cho phép người được giao nhiệm vụ quản lý, tổ chức thực hiện các dự án đầu tư và sản xuất công nghiệp quốc phòng thuê và trả lương, thù lao đặc biệt cho các đối tượng này theo những tiêu chí nhất định. Có chính sách ưu đãi về hậu phương, an sinh xã hội đối với cán bộ ở một số ngành, nghề, vị trí nhất định,... Trong thời gian tới, cần tập trung đổi mới mạnh mẽ các chế độ và chính sách có liên quan, trong đó ưu tiên đồng bộ cả 2 yếu tố: đãi ngộ và trọng dụng nhân tài.
Bên cạnh chế độ đãi ngộ chung cho toàn bộ đội ngũ khoa học - công nghệ trong ngành công nghiệp quốc phòng, cần có thêm những công cụ đặc biệt, đãi ngộ đặc thù cho một số ít chuyên gia trình độ cao, như các chủ nhiệm công trình, dự án, đề tài khoa học, các chuyên gia đầu ngành về công nghệ cao... - những người có thể đảm đương vai trò thủ lĩnh, dẫn hướng cho các tập thể khoa học thực hiện thành công nhiệm vụ khoa học - công nghệ mang tính đột phá mũi nhọn. Tuy nhiên, đối với nhân tài thì đãi ngộ tuy quan trọng, nhưng động lực tạo ra chưa thể đủ mạnh nếu thiếu sự trọng dụng. Theo đó, cùng với việc tôn vinh, động viên, khen thưởng, còn phải tin cậy và giao nhiệm vụ xứng tầm, có định hướng chiến lược và cơ chế bảo đảm nguồn lực ổn định, dài hạn để các nhà khoa học tâm huyết, gắn bó với sự nghiệp công nghiệp quốc phòng. Bảo đảm điều kiện, phương tiện nghiên cứu và cơ hội trải nghiệm thực tiễn cho các nhà khoa học. Tạo cơ hội cho các nhà khoa học được phát triển chuyên môn, cập nhật thông tin khoa học - công nghệ mới ở trong nước và nước ngoài phục vụ cho các chương trình, dự án, đề tài... từ nghiên cứu, thăm dò cho tới khi tạo ra sản phẩm quân sự cuối cùng ứng dụng trong lực lượng vũ trang.
Về phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng “lưỡng dụng”
Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, vừa sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng quân sự, vừa tham gia sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng dân dụng. Hầu hết quốc gia đều chú trọng tính lưỡng dụng để đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới vào nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản phẩm quốc phòng, đồng thời sản xuất các sản phẩm dân sinh cũng như đẩy mạnh phát triển, chuyển giao một số công nghệ cho công nghiệp dân sinh. Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng sẽ khai thác tốt tiềm năng, phát huy tốt nội lực trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng để đáp ứng đồng thời các yêu cầu của quốc phòng - an ninh và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đó, giảm bớt sự phụ thuộc, đa dạng hóa việc tiếp cận công nghệ, nguồn lực trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh lưỡng dụng hóa trong nghiên cứu phát triển, đầu tư công nghệ,... thông qua các phương thức hợp tác quốc tế đa dạng, linh hoạt, đồng bộ cả về chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu phát triển mẫu vũ khí mới, hợp tác về đào tạo nhân lực, phát triển thị trường quốc tế và xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm quân sự, lưỡng dụng và sản phẩm kinh tế. Tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong phân công chuyên môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng...
Công nghiệp quốc phòng nước ta cần phát huy lợi thế và vai trò mũi nhọn về công nghệ lưỡng dụng để có thể dẫn hướng công nghiệp quốc gia trong một số lĩnh vực đặc thù, sở trường. Công nghệ lưỡng dụng phải được hiện thực hóa thành hiệu quả của các sản phẩm kinh tế do công nghiệp quốc phòng chế tạo, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh sản xuất phục vụ xuất khẩu, bao gồm cả sản phẩm kinh tế dân sinh và sản phẩm vũ khí đúng quy định của pháp luật. Chuẩn bị điều kiện, phương án, xúc tiến triển khai một số đề án sản xuất theo phương thức hợp tác, liên doanh với đối tác nước ngoài.
Một giải pháp quan trọng để phát triển công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng là phải đẩy mạnh kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, vận dụng hiệu quả thành tựu của nền kinh tế quốc dân phục vụ sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật. Để khoa học - công nghệ và công nghiệp quốc gia tham gia xây dựng phát triển công nghiệp quốc phòng, cần lồng ghép nhiệm vụ đặc thù này vào trong các đề án chiến lược về xây dựng và phát triển của các bộ, ngành, địa phương; trong đó, triển khai thực hiện một số dự án liên doanh, liên kết với các cơ sở dân sinh hoặc đầu tư hỗ trợ các cơ sở dân sinh nhằm mục đích phục vụ công nghiệp quốc phòng. Nhu cầu đầu tư cho phát triển công nghiệp quốc phòng rất lớn, vì vậy bên cạnh phát huy hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, cần tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho nhiệm vụ này, kể cả vốn đầu tư của nước ngoài và của các thành phần kinh tế trong nước./.
----------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 279
Tạo động lực cho trí thức Việt Nam phát triển đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  (15/11/2023)
Phát triển truyền hình đa nền tảng trong kỷ nguyên số ở Việt Nam  (15/11/2023)
Từ ChatGPT đến AI: Thực trạng và ứng dụng trong chiến lược phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo của Việt Nam  (15/08/2023)
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  (04/06/2023)
Phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay  (28/12/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay