Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta

Trần Ngọc Đường GS, TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
08:55, ngày 08-03-2016

TCCS - Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là một vấn đề mới. Do đó, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, bảo đảm phòng, chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả; mặt khác, bảo đảm tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước.

Quá trình nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới

Trước thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta chưa có thuật ngữ “kiểm soát quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng đã hình thành những quy định có nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước. Ví dụ, Quốc hội có quyền hạn, “giám sát việc thi hành Hiến pháp” (khoản 3, Điều 50 Hiến pháp năm 1959); “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3, Điều 83 Hiến pháp năm 1980). Hội đồng Nhà nước “giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 7, Điều 100 Hiến pháp năm 1980); “giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp” (khoản 9, Điều 100 Hiến pháp năm 1980). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang nhân dân...” (Điều 138 Hiến pháp năm 1980). Mặc dù Hiến pháp có những quy định nói trên, nhưng vì tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nên quyền lực nhà nước chưa được phân công một cách minh bạch và do đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa có cơ sở ra đời. Như vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được hình thành theo đúng nghĩa của nó, là nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước theo giới hạn của Hiến pháp được nhân dân giao cho.

Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và Nhà nước ta đã từng bước có sự phát triển về chất. Trước hết, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, việc thừa nhận Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về nhận thức để từng bước chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, mặc dù quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không thực hiện được quyền lực nhà nước của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, mà phải thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Vì thế, nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập hiến, mà Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác. Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao nhất để giới hạn quyền lực nhà nước, bắt buộc Nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng đây là bước đổi mới rất cơ bản trong tư duy về “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân” mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế hóa một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và khẳng định: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và nguyên tắc “phân công, phối hợp...” được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức phải kiểm soát quyền lực nhà nước tại Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn kiện Đại hội X, trong mục “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đã đề cập đến vấn đề “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.

Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói, lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng: “1- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước từ mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, không xem kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan, đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền mà trong đó, kiểm soát quyền lực nhà nước như một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của nhà nước phải trải qua một quá trình 20 năm. Đó là quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại nhiều thập niên, ăn sâu, bám rễ chắc vào tư duy của nhiều người mà không thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy nhà nước một cách mạnh mẽ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) thừa nhận nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó; rồi đến việc thừa nhận “Nhà nước ta... là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, vận hành theo nguyên tắc căn bản “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là cả một quá trình. Xét về thời gian, quá trình này tuy dài, nhưng đó là sự vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và nâng cao từng bước qua các kỳ đại hội Đảng.

Thực tiễn vận hành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới

Từ sự chuyển biến và thay đổi về nhận thức lý luận nói trên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng từng bước ra đời và được vận hành trong thực tiễn, với những biểu hiện cụ thể như sau:

Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội được tăng cường hơn trước đây. So với Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, có thể thấy, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã trao cho Quốc hội nhiều hình thức thực hiện quyền giám sát nhất - từ xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, đến xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban (Điều 7 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003). Đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã bổ sung thêm hình thức “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Quốc hội không những giám sát hoạt động mà còn giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập và bầu ra. Như vậy, Quốc hội được xem là một thiết chế quan trọng nhất trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là hoạt động chất vấn tại nghị trường, được tăng cường, và nhìn chung, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Hai là, trong bộ máy hành pháp, công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước cũng được tăng cường, góp phần vào quản lý nhà nước và đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Ba là, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng bước đầu góp phần vào kiểm soát quyền lực nhà nước, với tư cách là một thành tố cấu thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bộ máy nhà nước.

Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng còn những tồn tại chủ yếu như sau:

Về nhận thức, thói quen truyền thống của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tuyệt đối hóa, trở thành sức ỳ, cản trở việc thực hiện những tư duy, nhận thức mới. Vì thế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, xét về phương diện nhận thức, còn nhiều vấn đề thiếu nhất quán, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Hiến pháp năm 2013 thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, là người “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp” (Lời nói đầu), nhưng chưa ghi nhận cơ chế tài phán các vi phạm Hiến pháp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, như văn kiện của Đảng đã chỉ ra. Do đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội chưa có cơ chế kiểm soát. Có thể nói, nhiều vấn đề rất mới, rất phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, như “Phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”... chưa có được nhận thức hoàn toàn thống nhất, nhất quán và sâu sắc trong các đạo luật, nhất là các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước ban hành sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực.

Về thực tiễn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, kể cả sau khi có Hiến pháp năm 2013 cũng chưa hoàn thiện. Vẫn chưa có thiết chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn nằm ngoài cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp là phương tiện chủ yếu phục vụ cho quản lý nhà nước, được xem là một thiết chế độc lập thực hành kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế, Thanh tra Chính phủ và thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước là những thiết chế phụ thuộc vào thủ trưởng quản lý, phục vụ cho quản lý nhà nước. Vì thế, thanh tra, kiểm tra trong bộ máy quản lý nhà nước không phải là chủ thể và là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa.

Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước của viện kiểm sát nhân dân để chuyển cho các cơ quan dân cử và cơ quan thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001 dường như đã làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước không được tăng cường, nhiều biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát hiện và xử lý chậm, không kịp thời.

Đối với nội bộ Đảng, hệ thống ủy ban kiểm tra thực chất cũng làm nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc kiểm tra các cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Nhưng ủy ban kiểm tra của các tổ chức đảng lại chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu chủ động và không mang tính toàn diện của kiểm soát quyền lực nhà nước.

Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong việc góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa được phát huy một cách đầy đủ.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong tình hình mới

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Do đó, nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước của mình. Đây là một đòi hỏi tất yếu nảy sinh từ nhu cầu chính đáng và tự nhiên của người chủ. Bởi, nếu không kiểm soát được quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho Nhà nước sẽ bị mất quyền, bị lạm quyền từ phía Nhà nước.

Từ quan điểm nói trên, trong mối quan hệ với kiểm soát quyền lực nhà nước, nhiều nhận thức mới đã được thể hiện xuyên suốt trong bản Hiến pháp năm 2013. Đó là, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến; Quốc hội không còn là thiết chế duy nhất có quyền lập hiến như quy định của Hiến pháp năm 1992. Vì thế, Hiến pháp năm 2013 đã đặt nền móng hiến định cho sự ra đời một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, tức là từ phía nhân dân. Thể hiện điều đó, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định, ngoài việc thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện (thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước), nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, như bầu cử và bãi nhiệm (Điều 7); công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29); công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước,... (Điều 28); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức (Điều 9); Công đoàn Việt Nam... tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước (Điều 10). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã đặt cơ sở cho việc hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Với các quy định nền tảng này, cần phải xây dựng cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (hay còn gọi là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài).

Thứ hai, nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước, điều quan trọng trước tiên là tổ chức bộ máy nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn, mạch lạc giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có phân công, phân nhiệm mới có cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, thì đồng thời nhân dân cũng là chủ thể phân công quyền lực nhà nước, chứ không phải Quốc hội là chủ thể phân công quyền lực nhà nước như trước đây. Theo nhận thức đó, Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực nhà nước.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã quy định quyền lực nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2). Nhưng Hiến pháp năm 1992 chưa chỉ ra được một cách rõ ràng cơ quan nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là cơ quan hành pháp và cơ quan nào là cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục được nhược điểm đó bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Việc thừa nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một đổi mới quan trọng so với mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây. Nó tạo điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước và nhân dân có căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền; đồng thời khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp chưa được chế định rõ. Trên thực tế, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (tức là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước), bảo đảm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều được kiểm soát.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119); đồng thời giao cho “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định để đưa vào tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

 *
*     *

Vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định./.