Bổ sung, phát triển nhận thức lý luận về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những thành tựu nổi bật (Kỳ 3)
Kỳ 3: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền cho xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Định hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các nhận thức về xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại mà Văn kiện Đại hội XIII đề cập có ý nghĩa quan trọng đến sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Bởi, xây dựng và phát triển thành công nền văn hóa, phát triển toàn diện con người là nền tảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, là cơ sở thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững, là đột phá(1) để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước trên chặng đường xây dựng CNXH ở nước ta.
Quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng; và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng cũng được xây dựng khi có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là luận điểm được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luận giải rõ trong tác phẩm Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua(2).
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền cho xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Về bản chất và hình thái, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (năm 1991)(3), được kế thừa và phát triển tại các nhiệm kỳ đại hội sau. Cương lĩnh năm 2011 (Bổ sung, phát triển), Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân..., do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thời gian qua, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã đạt được thành tựu quan trọng. Trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là tiếp tục có những nghiên cứu, bổ sung theo hướng “Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới”(4). Đây được coi là vấn đề có tính nguyên tắc, rất hệ trọng, và cần quan tâm đến một số vấn đề:
Một là, kiên định lập trường và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện đúng bản chất, đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
Bất luận trong hoàn cảnh nào, công cuộc xây dựng xã hội XHCN đều phải kiên định lập trường xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bởi đây là một trong những trụ cột quan trọng nhất để vận hành xã hội phát triển theo định hướng XHCN. Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó khẳng định mục tiêu tổng quát là “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Xét về bản chất, nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, và đó là hệ thống pháp luật dân chủ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cũng đồng thời là giữ vững, phát huy tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn của Nhà nước XHCN Việt Nam. Đây cũng chính là bản chất ưu việt của chế độ XHCN mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Hai là, lấy tính nhân dân, tính dân chủ và nhân văn làm chủ đạo để thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Tiếp cận từ góc độ thiết chế chính trị - pháp luật, trong điều kiện là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy tính nhân dân, dân chủ, nhân văn làm chủ đạo, “Đảng vừa lãnh đạo hệ thống chính trị, vừa là thành viên, bộ phận của hệ thống chính trị”. Mối quan hệ này thể hiện rõ ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về tính nhân dân: Đảng, Nhà nước ta luôn xác định mục tiêu cao cả nhất là vì con người, mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người; chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là hướng tới bảo đảm mọi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; Nhà nước là công cụ của nhân dân và thực thi quyền lực chính trị mà nhân dân giao cho. Nhà nước thông qua nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, kiểm tra, kiểm soát và giám sát hoạt động của Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước phải gắn công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với việc kiểm soát quyền lực nhà nước; thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng, chống tham nhũng và các quy định pháp luật có liên quan; hoàn thiện khung khổ pháp luật để tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính. Lấy nhiệm vụ nâng cao trình độ, năng lực chung cho các tầng lớp nhân dân; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị##- xã hội làm cơ sở để người dân và các cơ quan đủ sức đảm đương chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức, yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ trên tinh thần phục vụ nhân dân và ý thức liêm chính; loại bỏ thái độ vô cảm trước những bức xúc của nhân dân; loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, về tính dân chủ: bảo đảm để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Nhà nước thực hiện mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với kỷ luật, kỷ cương và tăng cường pháp chế. Nhà nước bảo đảm vai trò giám sát của người dân, bảo đảm quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là thực chất, hiệu quả. Trong xây dựng chính sách, pháp luật, phải minh bạch hóa quá trình chuẩn bị, soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở thực hiện nghiêm túc, thực chất việc tham vấn ý kiến người dân, doanh nghiệp, các đối tượng liên quan đến chính sách...
Thứ ba, về tính nhân văn: xây dựng hệ thống quy định về đạo đức nghề nghiệp, áp dụng chế độ kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, và kiểm tra đột xuất khi có hiện tượng, dấu hiệu vi phạm. Ngày 27-12-2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1847/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ, đây là một bước hiện thực hóa chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, là cơ sở quan trọng để thực hành văn hóa trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, thực hành liêm chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện và xử lý nghiêm minh đối với các biểu hiện, hành vi vi phạm. Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành tư pháp (28-8-1945 - 28-8-2015), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới”. Như vậy, các giá trị văn hóa, nhân văn giữ vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Điều này cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi các chủ thể trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ bên cạnh năng lực, trình độ chuyên môn, phải thực sự có nền tảng văn hóa, phải có ý thức và mong muốn cống hiến cho đất nước, phấn đấu vì sự phát triển con người.
Ba là, lấy nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện, bảo đảm bình đẳng để tất cả công dân đều là chủ thể của quyền lực chính trị, là chủ thể của quá trình phát triển, chủ thể giám sát việc thực thi quyền lực và cũng là chủ thể hưởng thụ các thành quả của phát triển. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm để mỗi người dân chủ động, tích cực sử dụng, thực hiện đúng đắn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong làm ăn, sinh sống, đóng góp sức người, sức của, năng lực và trí tuệ xây dựng, phát triển đất nước, thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật(5). Để quá trình thực thi pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, thực sự bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của công dân, mục tiêu, nội dung chính sách, pháp luật được đề ra phải trên cơ sở cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân, hiện thực hóa bản chất đặc trưng của CNXH, bao hàm các giá trị văn hóa phổ quát của các nhà nước trên thế giới, bên cạnh đó, có các giá trị riêng có, mang bản sắc dân tộc, phản ánh mong muốn, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trong xây dựng chính sách, pháp luật các lĩnh vực chuyên ngành, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế cũng phải chú ý đưa các yếu tố văn hóa vào các quy định cụ thể và có biện pháp bắt buộc các chủ thể thực hiện nghiêm các quy định này.
Quan điểm cơ bản cần được nhất quán là quá trình xử lý những cá nhân, tập thể có sai phạm không chỉ là sự trừng phạt nghiêm minh đối với những hành vi sai phạm, mà còn là quá trình dựng xây một môi trường công bằng, một xã hội văn minh; quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cũng đồng thời là quá trình từng bước nâng cao trình độ dân trí cho người dân, nâng cao trình độ phát triển của đất nước. Do đó, mọi công dân đều phải tự ý thức nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững và trên cơ sở đó thực thi nghiêm chính sách, pháp luật. Nhà nước pháp quyền chỉ thực sự được phát huy khi có sự quyết tâm “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, có sự trong sạch, lành mạnh của bộ máy, của đội ngũ cán bộ ngành tư pháp và đặc biệt phải có sự ủng hộ của nhân dân. Công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang được đẩy mạnh, việc xử lý nghiêm minh hàng loạt cán bộ cấp cao đã cho thấy những kết quả bước đầu rất quan trọng trên hành trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng vững bền xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã nêu “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”, “không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa...”(7). Nhiều kỳ đại hội sau đó cũng đã khẳng định phải đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, đặc biệt, trong những nhiệm kỳ gần đây, các quan điểm, định hướng mang tính chỉ dẫn cụ thể cách thức, phương pháp để văn hóa thực sự ngang tầm với chính trị, kinh tế được chỉ ra rõ nét. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) chỉ ra điều kiện bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là dựa trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ này và đặt ra yêu cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân... Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh...”(8). Nhiệm kỳ Đại hội XI có sự bổ sung quan trọng lý luận về văn hóa, trong đó đặc biệt coi trọng quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế thông qua xác định hai nhiệm vụ mới xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế và một trong những định hướng trọng điểm là phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Đại hội XIII tiếp tục xác định hai nội dung cụ thể này. Có thể thấy, chủ trương đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, lồng ghép vào kinh tế, thậm chí làm động lực, làm mũi nhọn đột phá cho phát triển kinh tế thông qua phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là nhận thức mới mẻ, phù hợp với xu hướng phát triển trong thời kỳ cách mạng khoa học - công nghệ, thời kỳ kinh tế tri thức mà kinh tế toàn cầu đang hướng tới. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là minh chứng sinh động của sự kết hợp giữa văn hóa với kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, thông tin truyền thông,... Và hiệu quả mang lại chứng minh văn hóa không chỉ đem lại giá trị hưởng thụ tinh thần, mà còn mang lại giá trị kinh tế to lớn, mang lại sức mạnh mềm cho cả quốc gia - dân tộc, trở thành một trong các trụ cột quan trọng trong phát triển đất nước.
Văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngày càng thẩm thấu, hòa quyện vào các ngành, lĩnh vực khác. Dựa trên các nguyên tắc vận động cơ bản của văn hóa là “dân tộc, đại chúng, khoa học”, các đặc trưng cơ bản của văn hóa được chuyển hóa, thẩm thấu vào nhận thức, hoạt động, hành vi từng cán bộ, đảng viên; thẩm thấu vào các lĩnh vực đời sống xã hội, vào toàn bộ hệ thống luật pháp, vào từng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,... Bên cạnh chính sách văn hóa, chính sách của các ngành, lĩnh vực khác cũng dần chú trọng đến các yếu tố văn hóa.
Quá trình phát triển lý luận của Đảng về văn hóa và văn hóa trong kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, nâng cao trên cơ sở quan trọng là văn hóa và kinh tế là một trong các trụ cột của phát triển, là một trong các mục tiêu quan trọng của quá trình phát triển, có mối quan hệ biện chứng hai chiều ngày càng rõ nét. Đó là sự tăng trưởng kinh tế phải tạo ra bước phát triển mới về văn hóa, không cho phép tăng trưởng kinh tế đơn thuần bất chấp hệ quả là các phản văn hóa; ngược lại, văn hóa phát triển phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tức là các giá trị văn hóa từ các di sản văn hóa vật thể đến phi vật thể cần được gìn giữ, phát huy, phát triển vì mục tiêu gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời phải hoàn thành nhiệm vụ gia tăng giá trị để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần nâng tầm vị thế quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Thực tế xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thời gian qua cho thấy một số vấn đề tồn tại liên quan đến văn hóa, cần được luận giải rõ hơn về mặt lý luận, góp phần định hướng chính sách cụ thể phù hợp hơn trong thực tiễn:
Thứ nhất, một trong những vấn đề luôn được đề cập đến khi nói tới những tác động mặt trái của kinh tế thị trường - đó là những tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống, đến nhận thức lệch lạc về các giá trị văn hóa, giá trị con người. Do đó, ở từng lĩnh vực phải đặc biệt chú ý:
Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm “bộ lọc” cho môi trường chính trị - kinh tế.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta có nền kinh tế nhiều thành phần, bộ phận kinh tế nhà nước được giao quyền chủ động, năng động hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người lao động được cải thiện; bộ phận kinh tế tư nhân phát triển nhanh và mạnh mẽ, tạo ra những cạnh tranh trên thị trường; bộ phận kinh tế đầu tư nước ngoài cũng được tạo điều kiện mở rộng, phát triển. Trong khi đó, cơ chế bao cấp về tài chính, bao cấp với một số sản phẩm mang tính đặc thù, cơ chế xin - cho vốn tồn tại một thời gian dài chưa hoàn toàn được cải thiện, hơn nữa, hệ thống pháp luật chưa thực sự chặt chẽ đã tạo ra những lỗ hổng, trong một số trường hợp tạo ra sự thiếu công bằng trong môi trường hoạt động giữa các thành phần kinh tế; bên cạnh đó, công tác giáo dục tư tưởng chính trị chưa được quan tâm đúng mức; hệ thống cơ quan tư pháp chưa thực sự đủ mạnh; còn có hiện tượng một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức không đầy đủ, thiếu đúng đắn về chức trách, nhiệm vụ, lạm dụng và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, sách nhiễu người dân, tổ chức, doanh nghiệp để mưu lợi cá nhân, một bộ phận những người hoạt động kinh tế tìm mọi cách từ hối lộ đến gian lận,... để được hưởng những “cơ chế” đó. Vụ án Chuyến bay giải cứu, Đại án Việt Á là hai ví dụ về hệ quả, tồn dư của cơ chế xin - cho; của hiện tượng vì lợi ích vật chất bất chấp cả các quy định pháp luật, lấn át cả các giá trị nhân văn, đạo đức, tình người vốn là truyền thống quý báu của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa làm “bộ lọc” để lành mạnh hóa môi trường chính trị - kinh tế có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết.
Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm “lá chắn” bảo vệ gia đình - các “tế bào” xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt(9). Phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đã tạo ra những biến đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp - việc làm, cấu trúc gia đình,... Từ quy mô gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống đã chia thành quy mô gia đình hạt nhân. Từ những tác động bên ngoài, từ những vấn đề nội tại khi quy mô, cấu trúc gia đình thay đổi đã làm nảy sinh một số vấn đề, như tầm ảnh hưởng của người cao tuổi trong gia đình giảm sút, lối sống và giáo dục trong một số gia đình biến đổi, có hiện tượng phai nhạt các nét sinh hoạt văn hóa truyền thống, thậm chí là đảo lộn các giá trị truyền thống tốt đẹp, dẫn đến mối quan hệ giữa ông, bà - cha, mẹ - con cái (trong quy mô gia đình truyền thống) và mối quan hệ vợ - chồng, cha, mẹ - con cái (trong quy mô gia đình hạt nhân) không còn bền chặt. Đây là nguy cơ làm hỏng các “tế bào” và dễ dẫn đến bất ổn trong xã hội. Trong bối cảnh đó, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa gia đình tốt đẹp trở thành “lá chắn” bảo vệ “tế bào” của xã hội. Các “lá chắn” đó thể hiện ở “sự dạy bảo, khuyên nhủ”, nhưng cũng “phải có khuôn phép, gia phong, nền nếp (nếp nhà): Trên kính dưới nhường, tôn ty trật tự, không thể vô lễ, vô phép”. Và để gia đình thực sự là “thành trì của Tổ quốc” thì “Một làng, một xã, một dòng họ cũng có hương ước, quy ước, lệ làng; một cơ quan, một công sở phải có “Nội quy”; một tổ chức, đoàn thể phải có “Quy chế”, có “Điều lệ”(10).
Gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa làm lành mạnh môi trường xã hội.
Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố chủ thể, trung tâm trong các quan hệ xã hội. Kinh tế, vật chất được coi trọng quá mức thì dễ dẫn đến những suy đồi trong xã hội, mà biểu hiện cụ thể ban đầu là những suy nghĩ lệch lạc, hành động phản cảm, những hiện tượng coi thường luật pháp, coi thường luân lý, đạo đức. Kinh tế phát triển, đời sống một bộ phận người dân được cải thiện, đồng thời cũng làm doãng rộng phân hóa giàu - nghèo, từ đó hình thành các phân khúc chi tiêu ở các mức độ khác nhau, hình thành nhiều tầng lớp trong xã hội với sự đa dạng về phong cách, lối sống, về thói quen sinh hoạt,... Và tầng lớp có điều kiện kinh tế nổi lên, tạo ra những trào lưu, xu hướng mới tác động, chi phối các quan niệm truyền thống về văn hóa, về các giá trị trong cuộc sống, làm cho các giá trị kinh tế có lúc, có nơi được đặt lên trên, lên trước các giá trị văn hóa, đạo đức. Internet, mạng xã hội tạo ra những kênh tiếp nhận văn hóa nhiều chiều từ các nền văn hóa khác, có những thời điểm còn mang tính dẫn dắt nhận thức và hành động, nhất là đối với thế hệ trẻ. Do đó, giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh là tạo mạch nguồn tốt nhất nuôi dưỡng những chủ thể tương lai của đất nước.
Thứ hai, soi chiếu việc đưa yếu tố văn hóa vào quá trình phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể, thấy còn có những bất cập cần khắc phục.
Các đại hội gần đây đánh giá văn hóa phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác(11). Trong quá trình phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ khi xây dựng chương trình, đề án,... đã chưa thấy sự hiện diện tương xứng của các yếu tố văn hóa. Các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nhà ở, khu đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất hình thành, nhưng chưa bảo đảm kèm theo các thiết chế văn hóa cần thiết bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho người dân, cho công nhân. Đối với một số chương trình lớn có đưa vào quy định các yếu tố văn hóa như Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, thì các quy định quá cứng nhắc lại làm giảm hiệu quả trong thực tế. Ví dụ: hai tiêu chí về văn hóa trong xây dựng nông thôn mới(12) về cơ bản đã mang đến những tác động tích cực, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần cho người dân ở nhiều vùng, miền trên cả nước, tuy nhiên đối với một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số việc xây dựng cơ sở vật chất văn hóa, hệ thống thiết chế văn hóa chưa giữ được linh hồn, không gian sống, không gian văn hóa truyền thống vốn có từ nhiều thế hệ của đồng bào; chưa thực sự phù hợp với phong tục, tập quán sinh hoạt cộng đồng của bà con. Chúng ta luôn khẳng định bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, tôn trọng và hài hòa giữa bản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia với sắc thái văn hóa dân tộc/tộc người, văn hóa địa phương, do đó, các chính sách ban hành rất cần được nhận thức, nắm bắt kịp thời, đặc biệt phải được triển khai thực hiện đúng, bảo đảm phù hợp quá trình tiếp biến văn hóa, có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp từng giai đoạn đối với từng khu vực, từng đối tượng cụ thể. Mặc khác, chính sách do nhà nước ban hành, nhưng để văn hóa thực sự trở thành nền tảng quan trọng, phát huy vai trò trong phát triển, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các thành tố văn hóa cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, lấy ý kiến các nhà nghiên cứu văn hóa, hoạt động văn hóa trước khi ban hành để có chính sách phù hợp, hiệu quả. Và việc thực hiện phải được trao cho người dân, bởi xét đến cùng thì văn hóa là của nhân dân, do nhân dân sáng tạo nên và phục vụ cuộc sống nhân dân. Đây cũng là hiện thực hóa quan điểm về xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng.
Xét về tổng thể, từ đổi mới đến nay, nền văn hóa Việt Nam đã chịu tác động không nhỏ từ mặt trái kinh tế thị trường, hệ quả là những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức, hành vi, dù đó chưa phải là những biến đổi về chất. Tuy nhiên, nếu thiếu đi những định hướng XHCN nói chung và định hướng XHCN đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường thì những biến đổi này có thể đi theo hướng khác. Do đó, việc xác định rõ quan điểm, định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là định hướng căn bản, cốt lõi, quan trọng, và đặc biệt trong bối cảnh hiện nay xác định lấy xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ bổ sung, làm rõ hơn, nội hàm, bản chất của văn hóa trong thời kỳ mới, mà còn làm rõ một cách toàn diện và sâu sắc hơn tác động, ảnh hưởng, khả năng điều tiết của văn hóa đối với phát triển xã hội nói chung và trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Quan điểm này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức về văn hóa và đường lối phát triển đồng bộ, hài hòa giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội,... của Đảng ta.
Lan tỏa các giá trị văn hóa, khơi dậy ý thức, kết hợp đặt ra các yêu cầu hết sức cụ thể mang tính văn hóa trong hoạt động của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý; trong hoạt động của các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước; trong phát triển kinh tế - xã hội là giải pháp căn cốt được Đảng ta và đặc biệt là người đứng đầu Đảng ta - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hết sức coi trọng, đề cao. Những bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa; phát biểu với những người làm văn hóa, văn nghệ; những bài viết về các vấn đề văn hóa, về hoạt động văn học, nghệ thuật của Tổng Bí thư không chỉ cho thấy tình cảm yêu mến, mà còn cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Tổng Bí thư đến lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật hiện nay; cho thấy những nhận thức lý luận quan trọng về mối quan hệ giữa văn hóa, văn học, nghệ thuật với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; cho thấy đạo đức, văn hóa, văn học, nghệ thuật đã và đang được nâng lên một tầm cao mới, mà lịch sử đã chứng minh, khi văn hóa được đề cao, đạo đức được coi trọng, con người được phát triển toàn diện, được tạo điều kiện phát huy hết năng lực, sở trường thì thành tựu trên các lĩnh vực sẽ nở rộ, xã hội sẽ phát triển bứt phá.
Có thể thấy, quan điểm, nhận thức ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn về vai trò và sứ mệnh của văn hóa trong phát triển, trong đó nổi bật là những nhận thức lý luận về văn hóa với chính trị, văn hóa với kinh tế, văn hóa với quản lý phát triển xã hội... đã đưa nhận thức về văn hóa và nhận thức về phát triển lên một tầm cao mới. Nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo hướng gắn bó chặt chẽ, hài hòa với tiến bộ, công bằng xã hội chính là hiện thực hóa, cụ thể hóa quan điểm, định hướng lấy xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ, hài hòa làm nền tảng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là những bổ sung nhận thức lý luận mới, quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay./.
-------------------
(1) Trong đột phá chiến lược thứ hai đã nhấn mạnh: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 435 – 436
(3) Xem: Phan Trung Lý, Nguyễn Trung Thành: “Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (415), tháng 8-2020
(4) Xem: Nguyễn Phú Trọng, Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Sđd, tr. 436
(5) Xem: Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành tư pháp (28-8-1945 - 28-8-2015) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội, ngày 25-8-2015, https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=29962
(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 470
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213
(9) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 300
(10) Xem: Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính, ngày 15-9-2021, https://vietnamnet.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-tai-hoi-nghi-toan-quoc-cac-co-quan-noi-chinh-775144.html
(11) Xem: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016
(12) Bộ Tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu chí, trong đó, lĩnh vực văn hóa có 2 tiêu chí, gồm tiêu chí 6 (cơ sở vật chất văn hóa), tiêu chí số 16 (văn hóa)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển