Nhà nước phục vụ và kiến tạo phát triển trên cơ sở cách tiếp cận dựa trên quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Mô hình Nhà nước quản lý - phục vụ trong Hiến pháp năm 2013
Ở nước ta, Nhà nước ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là Nhà nước của nhân dân. Nó được nhân dân trao quyền chính thức qua bản Hiến pháp năm 1946. Tiếp đó, bộ máy nhà nước tiếp tục được xây dựng, điều chỉnh, đổi mới, hoàn thiện qua các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp năm 2013. Quá trình xây dựng, điều chỉnh, đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước phản ánh thực tế phát triển của đất nước và của Nhà nước Việt Nam.
Trong hơn 70 năm qua, quá trình xây dựng, điều chỉnh, đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước tùy thuộc vào mức độ nhân dân ủy nhiệm quyền cho Nhà nước và Nhà nước cũng trao lại một số quyền cho người dân tự thực hiện. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung - bao cấp, hầu như mọi công việc nhà nước đều do cơ quan nhà nước quyết định theo mệnh lệnh hành chính; còn trong thời kỳ đổi mới, trong quá trình dân chủ hóa kinh tế và chính trị, Nhà nước đã trao cho người dân tự quyết định nhiều công việc chính trị - xã hội, nhất là ở cơ sở. Chẳng hạn, quyền trực tiếp bầu trưởng thôn và các quyền “biết, bàn, làm, kiểm tra” trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; hay đóng góp ý kiến gián tiếp qua các cuộc thảo luận hoặc trực tiếp qua các phương tiện truyền thông và gửi thư, khiếu nại, tố cáo về quyết định, hoạt động hay hành vi của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 được xây dựng về cơ bản theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Hiến pháp năm 2013 đã cơ bản thể hiện được quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức nên. Nói tóm lại quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân”(1).
Một trong những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 là đề cao quyền của nhân dân, thể hiện ngay từ Lời nói đầu cho đến Điều 2 của Hiến pháp. Còn Điều 3 của Hiến pháp chế định rõ chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước; đó là: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”
Điều 8 của Hiến pháp năm 2013 chế định: “1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. 2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Nếu Điều 6 Hiến pháp 1992 chỉ quy định nhân dân sử dụng quyền lực thông qua người đại biểu dân cử của mình bằng hình thức dân chủ đại diện, thì Điều 6 Hiến pháp năm 2013 chế định: Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp; thực hiện quyền qua dân chủ đại diện, thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước.
Như vậy, nhận thức và quyền hiến định ở nước ta đã chuyển từ Nhà nước “cai trị” như trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung - bao cấp, sang “nhà nước quản lý” và phục vụ. Trách nhiệm của Nhà nước là tôn trọng và phục vụ nhân dân, chứ không đứng trên nhân dân. Nhân dân có các quyền dân chủ đại diện và trực tiếp để tham gia vào các công việc của Nhà nước. Đây là cơ sở hiến định cho việc đẩy mạnh quá trình chuyển từ mô hình Nhà nước quản lý sang mô hình Nhà nước phục vụ và kiến tạo phát triển theo nội dung của Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
Trong quá trình chuyển đổi này, cả Nhà nước và người dân đều phải tự đổi mới, tự chuyển đổi theo các nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền con người. Mô hình Nhà nước phục vụ và kiến tạo phát triển được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền con người. Cụ thể:
Thứ nhất, các đặc điểm của cách tiếp cận dựa trên quyền con người.
Đây là cách tiếp cận dựa vào các tiêu chuẩn về quyền con người để xác định kết quả và lấy các nguyên tắc về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được, nhất là duy trì kết quả đó một cách bền vững. Theo đó:
- Các chủ thể quyền có quyền đòi hỏi được đáp ứng các quyền của họ;
- Nhà nước và các chủ thể chịu trách nhiệm bảo đảm quyền có nghĩa vụ thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy một cách công khai, minh bạch các quyền với sự tham gia của các chủ thể quyền theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử;
- Mọi sự xao nhãng hoặc vi phạm các quyền con người, quyền công dân, đều gắn với những trách nhiệm, như giải trình, tự chịu trách nhiệm về pháp lý và đạo đức hoặc những chế tài khác, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật;
- Coi trọng phương diện kết quả, và đặc biệt coi trọng phương diện tổ chức triển khai, thực hiện, kiểm tra, giám sát nhằm hỗ trợ người dân tham gia tích cực vào phát triển, chứ không chỉ là người thụ động hưởng lợi từ các chương trình phát triển; và để bảo đảm kết quả phát triển bền vững.
Thứ hai, hoạt động của Nhà nước phục vụ và kiến tạo phát triển theo cách tiếp cận dựa trên quyền con người.
- Xuất phát từ quan điểm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền con người trong chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước;
- Xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền trong mỗi chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước;
- Coi trọng quyền được tham gia của người dân vào tất cả các chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước, nhất là của các nhóm yếu thế, theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử;
- Bảo đảm tính minh bạch (nghĩa vụ giải trình và trách nhiệm pháp lý, đạo đức) trong việc thực hiện các chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước.
Thứ ba, trên cơ sở rà soát các chức năng quản lý của Nhà nước, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, nhất là Điều 3, để xây dựng ngày càng đầy đủ các chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước phù hợp với việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân đã được chế định trong Hiến pháp năm 2013.
Giải pháp chuyển sang mô hình Nhà nước phục vụ và kiến tạo phát triển
Một là, xác định một số nguyên tắc cần phải tuân thủ trong quá trình cải cách hành chính nhà nước.
Đó là: a/ Nguyên tắc phục vụ nhằm hướng đến chỗ hoàn thiện quan hệ giữa khách hàng (công dân) và người phục vụ (Nhà nước); b/ Nguyên tắc công khai nhằm thể hiện nhất quán và thực hiện trên thực tế một Nhà nước nói chung và một nền hành chính nhà nước nói riêng là phục vụ một cách minh bạch. c/ Nguyên tắc phối hợp trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước theo vùng lãnh thổ, ngành kinh tế - xã hội và lĩnh vực (chính trị đối nội và đối ngoại, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng); d/ Nguyên tắc phân định rõ hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sản xuất - kinh doanh, trước hết tại các cơ sở kinh tế do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Hai là, vận dụng sáng tạo cách thức quản lý hành chính của nhà nước hiện đại.
Mục đích là: a/ Xác định lại phạm vi của các quyết định nhà nước theo hướng gọn hơn; b/ Áp dụng các nguyên tắc của thị trường trong cung cấp hàng hóa và dịch vụ công; c/ Chịu trách nhiệm đến cùng với công dân với tư cách là khách hàng của dịch vụ công do Nhà nước cung cấp; d/ Trao quyền trực tiếp nhiều hơn cho công chức; đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương; đ/ Đảm bảo tiếp cận công bằng cho mọi người đến các loại dịch vụ công; e/ Xây dựng chính phủ điện tử; g/ Áp dụng ISO, quản lý chất lượng toàn bộ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, cơ bản thông qua “Bộ tiêu chuẩn quản lý hành chính nhà nước” của các ngành, các cấp.
Ba là, một số giải pháp nhằm phát triển dân chủ đại diện.
- Đối với Quốc hội: a/ Cần thể chế lại vai trò của Quốc hội, chủ yếu phải là cơ quan xây dựng pháp luật. b/ Phát triển các dịch vụ đối với cử tri, tạo thêm cơ hội để cử tri được giao lưu trực tiếp nhiều hơn với các đại biểu Quốc hội, để đại biểu Quốc hội có trách nhiệm giải trình hơn với cử tri; c/ hạn chế tình trạng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là những người giữ các chức danh trong bộ máy hành chính các cấp.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định. Cần nghiên cứu, có thể tái lập hội đồng thôn trong điều kiện đã thực hiện ổn định việc bầu trưởng thôn.
- Thực hiện nhất thể hóa chức danh Đảng và chính quyền, trước mắt là mô hình “Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp cơ sở và địa phương”.
- Điều chỉnh một số hoạt động của chính quyền địa phương nhằm khắc phục tình trạng như một “Nhà nước địa phương” và phân biệt rõ chính quyền nông thôn với chính quyền đô thị. Nghiên cứu có thể đổi tên Ủy ban nhân dân thành Ủy ban hành chính.
- Tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh được bầu hoặc phê chuẩn không chỉ ở Trung ương mà cả ở địa phương, cơ sở: Nếu phiếu tín nhiệm thấp có thể từ chức hoặc miễn nhiệm.
Bốn là, một số giải pháp nhằm phát triển dân chủ trực tiếp.
Cụ thể: a/ Tăng cường trách nhiệm giải trình và tự chịu trách nhiệm; b/ Tăng cường khuôn khổ pháp lý cho Pháp lệnh và các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp, để chúng trở thành cơ sở pháp lý nền tảng cho các phong trào xã hội, văn hóa ở cơ sở; c/ Tạo điều kiện và tạo quyền cho người dân tham gia các hoạt động bầu cử, ứng cử, đề cử, ví dụ thông qua việc mở rộng các vị trí bầu cử; xây dựng một số thể thức bầu cử dân chủ,…; d/ Mở rộng các hình thức tiếp xúc cử tri của các đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội.
Năm là, thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thông quá đó, “tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(3) nhằm thúc đẩy việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Sáu là, phát triển và “phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ,… khắc phục tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng; phát triển nhiều hình thức tự quản của dân hoạt động theo pháp luật”(4). Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thông qua đó hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước./.
-------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 232
(2) Xem: Quyền phát triển và cách tiếp cận dựa trên quyền: quan điểm của Liên hợp quốc, Thông tin quyền con người, Viện Nghiên cứu quyền con người, số 6/2010, tr.35 - 40
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, Nxb. CTQG, HN, 2011, tr.247
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, Nxb. CTQG, HN, 2006, tr.255.
Lãnh đạo Campuchia tiếp Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Đinh La Thăng  (02/06/2016)
Chính phủ Nhật Bản thông qua kế hoạch tăng phúc lợi xã hội  (02/06/2016)
Việt Nam nêu quan điểm nhất quán về Biển Đông tại Đối thoại Shangri-La  (02/06/2016)
Ông Obama cáo buộc đảng Cộng hòa “đánh lừa và gieo rắc hoài nghi”  (02/06/2016)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên