Thực trạng phân bố không gian phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tạo động lực thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tỉnh Quảng Ninh
TCCS – Thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Ninh, “Về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030”, Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh đã chủ động hoàn thiện về quy hoạch xây dựng, phân bố không gian các khu công nghiệp, khu kinh tế, qua đó tạo động lực thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến chế tạo.
Ngày 16-11-2020, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU “Về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT) là một trong những ngành kinh tế quan trọng, động lực dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp; chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp CBCT trở thành một trong 3 trụ cột chính của ngành công nghiệp, động lực cho phát triển kinh tế của tỉnh. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo gắn liền với phát triển bền vững các khu công nghiệp, khu kinh tế thực sự trở thành những động lực tăng trưởng; chú trọng phát triển khu công nghiệp theo mô hình “3 trong 1” khu công nghiệp - khu đô thị - khu dịch vụ, với kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, dịch vụ tiện ích khác biệt, tạo ra môi trường làm việc và môi trường sống văn minh, an toàn; tạo việc làm, tăng thu nhập cho công nhân, người lao động. Nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực dẫn dắt, gắn kết với phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước vững mạnh là nền tảng. Định hướng thu hút vào ngành công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao có nhu cầu lớn trên thị trường, công nghiệp y dược, công nghiệp thời trang, công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm - thủy sản; công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế biển, dịch vụ…
Thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ; căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh đã chủ động hoàn thiện về quy hoạch xây dựng, phân bố không gian các khu công nghiệp, khu kinh tế, qua đó tạo động lực thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến chế tạo theo tinh thần Nghị quyết số 01-NQ/TU. Cụ thể như sau:
Theo Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 5 KKT (gồm 3 KKT cửa khẩu, 2 KKT ven biển) và 16 KCN, với tổng diện tích khoảng 388.671 ha, được quy hoạch, phân bố trên 11/13 địa phương của tỉnh Quảng Ninh. Đối với KKT xác định: Xây dựng, phát triển Khu kinh tế ven biển Quảng Yên là hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tuyến phía Tây của tỉnh và của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trở thành đô thị - công nghiệp - dịch vụ - cảng biển thông minh, hiện đại; Khu kinh tế Vân Đồn trở thành trung tâm công nghiệp giải trí, công nghiệp văn hóa có casino, du lịch biển đảo cao cấp, dịch vụ tổng hợp đẳng cấp quốc tế với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại gắn với bảo tồn và phát huy giá trị vịnh Bái Tử Long, phát triển theo mô hình đô thị thông minh, trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực; Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế phát triển năng động, bền vững của tỉnh và của vùng Đông Bắc, đồng thời là trung tâm phát triển kinh tế quan trọng của vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc Bộ. 3 KKT trên đồng thời là hạt nhân của 3 vùng động lực theo Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đối với 16 KCN, tổng diện tích là 12.899,5 ha, được phân bổ dọc theo các trục đường cao tốc từ Quảng Yên đến Móng Cái (KCN: Đầm Nhà Mạc, Việt Hưng, Phụ trợ ngành than, phía Bắc sân bay, Bắc Cái Bầu, Hải Hà, Hải Hà 1, Hải Hà 2, Hải Yên, Tiên Yên), trục đường ven sông từ Quảng Yên đến Đông Triều (Đông Triều, Đông Mai, Sông Khoai), gắn liền với hệ thống cảng biển (Đầm Nhà Mạc, Hải Hà, Vạn Ninh, Cái Lân, Đông Bắc Cái Bầu), cửa khẩu (Hải Yên, Vạn Ninh,...), khoảng cách đến các sân bay quốc tế gần, rất thuận lợi về giao thông, logictics. Ngoài lợi thế về logistics (đường bộ, cảng biển, đường hàng không, cửa khẩu), đa số các KCN còn được bố trí nằm trong địa bàn các KKT trọng điểm như: KCN Sông Khoai, KCN Đầm Nhà Mạc thuộc Khu kinh tế ven biển Quảng Yên (ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp hóa chất, hóa dầu, công nghiệp phụ trợ và khu dịch vụ cảng biển gắn liền với ngành công nghiệp và cảng biển, công nghiệp công nghệ cao, chế biến chế tạo); KCN phía Bắc sân bay, KCN Bắc Cái Bầu thuộc KKT Vân Đồn (ưu tiên thu hút các ngành dược phẩm, sản xuất trang, thiết bị y tế, máy móc thiết bị, công nghệ cao, dịch vụ, logistics, kho bãi); KCN Hải Hà, Hải Hà 1, Hải Hà 2, Hải Yên, Vạn Ninh thuộc KKT cửa khẩu Móng Cái (ưu tiên thu hút các ngành công nghệ cao, sản xuất lắp ráp ô tô, y dược, điện tử, trang thiết bị y tế, sản xuất hàng tiêu dùng; dệt may; cơ khí chính xác, chế biến nông, lâm sản). Với chính sách ưu đãi trong KKT, các KCN trên có lợi thế đặc biệt để phát triển, thu hút đầu tư, vừa là hạt nhân phát triển của các KKT, vừa tạo động lực phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến chế tạo theo tinh thần Nghị quyết số 01-NQ/TU.
Sau gần 2 năm triển khai theo tinh thần Nghị quyết số 01, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã đạt được nhiều kết quả khả quan, ngày càng khẳng định là một ngành quan trọng trong nền kinh tế và là một trong những trụ cột chính trong nền kinh tế của tỉnh trong đó phân bố không gian, quy hoạch các KKT, KCN, định hướng thu hút đầu tư để phát triển công nghiệp chế biến chế tạo đã được thể hiện rõ nét. Hạ tầng giao thông kết nối được quy hoạch, đã và đang được triển khai đồng bộ tạo hành lang kết nối thuận lợi hai phía Đông - Tây tỉnh, kết nối thuận tiện đến các khu kinh tế, khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng.
Đến nay, đã có 10 dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN thuộc 08 KCN được cấp có thẩm quyền quyết định, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và thành lập với tổng diện tích là 4.632,22ha (trong đó 6 khu công nghiệp đã có nhà đầu tư thứ cấp đang hoạt động sản xuất kinh doanh; 2 khu công nghiệp đã có nhà đầu tư thứ cấp đang triển khai xây dựng nhà xưởng và 2 khu công nghiệp đang hoàn thiện thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng). Diện tích đất đã giải phóng mặt bằng tại các KCN là 828,07ha; diện tích đất công nghiệp đã cho các dự án đầu tư thứ cấp thuê để thực hiện dự án là 586,37ha; diện tích đất công nghiệp hiện có thể sẵn sàng cho thuê là 506ha. Các dự án thu hút đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo cơ bản đều nằm trong các khu kinh tế, khu công nghiệp, gồm 12 dự án FDI với vốn đầu tư đăng ký là 1.072,06 triệu USD và 5 dự án vốn đầu tư trong nước với vốn đầu tư đăng ký là 7.183 tỷ đồng); điều chỉnh tăng vốn cho 6 lượt dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (100% là các dự án vốn đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 116,785 triệu USD. Trong đó, riêng trong năm 2022 là 4.084 tỷ đồng (trong đó nguồn vốn FDI đạt 63 triệu USD). Các dự án chế biến chế tạo điển hình được thu hút thuộc các ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, sản xuất thiết bị điện, sản xuất máy móc,... với các dự án của các nhà đầu tư, như Foxconn, TCL, Tập đoàn Bumjin, Tập đoàn Thành Công, Công ty TNHH công nghiệp Jinko Solar (Việt Nam)...
Mặc dù đã đạt được kết quả thu hút đầu tư đáng khích lệ. Tuy nhiên, so với tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu phát triển, việc phát triển KCN, KKT thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế, thể hiện chủ yếu trên các mặt:
- Tỷ lệ lấp đầy trong các KCN của tỉnh chưa cao, tỷ lệ lấp đầy theo số liệu thực tế đạt 55,36% (Hải Phòng đã triển khai 12 KCN/22 KCN với tỷ lệ lấp đầy đạt trên 60%);
- Năng lực cạnh tranh của các KCN trên địa bàn tỉnh còn hạn chế so với KCN tại các tỉnh lân cận như Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên (thể hiện ở tỷ lệ lấp đầy, khả năng thu hút vốn đầu tư, sự có mặt của các nhà đầu tư tầm cỡ...);
- Tiến độ triển khai một số dự án hạ tầng khu công nghiệp (như KCN Sông Khoai, KCN Nam Tiền Phong, KCN Bắc Tiền Phong, KCN Bạch Đằng) còn chậm làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận các dự án đầu tư;
- Các KCN trên địa bàn tỉnh còn thiếu nhà đầu tư hạ tầng chiến lược giúp thu hút các nhà đầu tư thứ cấp lớn; hình thành và xác định rõ ngành, nghề ưu tiên đầu tư, giúp định vị KCN về ngành nghề mũi nhọn.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Tiến độ triển khai một số dự án hạ tầng Khu công nghiệp còn chậm do: (i) công tác giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng... một số dự án gặp nhiều khó khăn; (ii) việc triển khai các thủ tục nạo vét luồng sông Chanh chậm, chưa đảm bảo theo yêu cầu đã ảnh hưởng đến việc thu hút và triển khai đầu tư một số dự án công nghiệp chế biến, chế tạo quy mô lớn vào các KCN (Nam Tiền Phong, Bắc Tiền Phong, Bạch Đằng).
- Một số phân khu chức năng trong các KKT, KCN do có sự điều chỉnh quy hoạch, trong đó có sự thay đổi định hướng phát triển nên việc kêu gọi đầu tư trong nhiều trường hợp bị gián đoạn. Bên cạnh đó, vẫn chưa xây dựng Chiến lược/Kế hoạch cụ thể về phát triển các ngành ưu tiên trên địa bàn tỉnh nói chung và các KKT, KCN nói riêng.
- Khi thành lập KCN, các hạ tầng kỹ thuật kết nối đến hàng rào còn hạn chế nên chưa hấp dẫn với các nhà đầu tư thứ cấp. Từ năm 2014 đến nay, các hạ tầng mới được đầu tư mạnh mẽ nên tiến độ thu hút nhà đầu tư thứ cấp đang có sự tiến triển (KCN Bắc Tiền Phong, Nam Tiền Phong...)
Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được nhận diện, tạo động lực thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến chế tạo theo tinh thần Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ “về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”, Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh đề xuất triển khai đồng bộ một số giải pháp sau:
- Đẩy nhanh tiến độ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có tích hợp phương án phát triển hệ thống KKT, KCN (đặc biệt là ranh giới Khu kinh tế ven biển Quảng Yên và 8 KCN bổ sung mới).
- Lựa chọn và thúc đẩy phát triển một số KCN, KKT theo hướng chuyên sâu, hiện đại hóa phù hợp với định hướng ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến chế tạo của tỉnh Quảng Ninh theo tinh thần Nghị quyết số 01-NQ/TU. Trọng tâm là phát triển và phát huy hiệu quả các khu công nghiệp nằm trong Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế ven biển Quảng Yên.
Với những biện pháp mạnh mẽ nhằm phát huy những tiềm năng thế mạnh sẵn có, tỉnh Quảng Ninh sẽ có những bước đột phát mới trong việc thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến chế tạo, phát triển bễn vững các khu công nghiệp, khu kinh tế thực sự trở thành những động lực tăng trưởng theo mục tiêu mà Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 16-11-2020 của Tỉnh ủy “về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030” đã đề ra./.
Mô hình Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh: Nhìn từ định hướng phát triển thành tổ hợp truyền thông của khu vực Đông Bắc  (15/12/2022)
Một số kết quả bước đầu trong chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” ở tỉnh Quảng Ninh  (02/12/2022)
Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng phát triển bền vững ở tỉnh Quảng Ninh thời gian tới  (01/12/2022)
Phát triển hệ thống sản phẩm OCOP để khai thác lợi thế so sánh của các địa phương tỉnh Quảng Ninh  (29/11/2022)
Khơi thông nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển hạ tầng giao thông  (26/11/2022)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên