Liên kết vùng để đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững và thịnh vượng (kỳ 2)
TCCS - Trước tác động của tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, yêu cầu tất yếu đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là phải đổi mới mô hình phát triển, đổi mới mô hình tổ chức sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn, tích cực và chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Muốn vậy, không có cách nào khác là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất theo hướng đẩy mạnh liên kết để tạo ra sức mạnh mới của các chủ thể kinh tế trong vùng và dần phát triển liên kết với các đối tác ngoài vùng.
Giải pháp góp phần hoàn thiện liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững và thịnh vượng
Thực tiễn cho thấy, mô hình tổ chức sản xuất lớn liên kết theo chuỗi giá trị, với nhiều hình thức, trình độ, quy mô khác nhau và có thể kết hợp hoạt động logictics của các tập đoàn, các tổng công ty vừa qua ở ĐBSCL đều đòi hỏi phải thay đổi cung cách sản xuất nhỏ lẻ, khép kín theo đơn vị hành chính; cần tiến hành xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo quy mô lớn, đa hình thức sở hữu.
Trong xu thế đó, theo nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, chuyên gia kinh tế, thì nội dung liên kết vùng ở ĐBSCL cần chú trọng đẩy mạnh liên kết hợp tác, phát triển hạ tầng giao thông kết nối với vùng Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; chú trọng khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả sản xuất lương thực, thủy sản, hoa quả gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đồng thời, quan tâm phát triển du lịch sinh thái, du lịch biển và du lịch văn hoá lễ hội, dịch vụ và kinh tế biển, đảo; phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Chủ động thích ứng, thực hiện hiệu quả các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; giải quyết vấn đề xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển; xây dựng chiến lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Kông...
Để việc thực hiện liên kết vùng ĐBSCL một cách thực chất, đạt hiệu quả cao trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp:
Nhóm giải pháp về nhận thức
Nhóm giải pháp này nhằm thống nhất nhận thức và hành động của “bốn nhà” trong hoạt động liên kết sản xuất, gồm: Nhà nước - nhà khoa học - ngân hàng - nhà doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước với vai trò tạo lập hay kiến tạo môi trường, điều kiện, chính sách cho phát triển liên kết. Nhà khoa học cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở khoa học về các lý thuyết, các loại mô hình, nội dung, hình thức, lĩnh vực ngành nghề cần thiết liên kết cùng với những lợi ích do liên kết mang lại, nhằm tạo cơ sở để định hướng cho hoạt động liên kết. Ngân hàng tạo nhiều thuận lợi hơn về các thủ tục, hình thức cho doanh nghiệp vay vốn, nhất là các dự án quy mô lớn để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh ở ĐBSCL. Nhà doanh nghiệp chủ động, tích cực xây dựng các mô hình liên kết, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, xác định phương án phân phối hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia liên kết. Các chủ thể sản xuất - kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, các địa phương trong và ngoài vùng cần thống nhất về sự cần thiết, lợi ích của liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản hàng hóa. Trong đó, chú trọng liên kết vùng trong các lĩnh vực thế mạnh của ĐBSCL như: nuôi trồng thủy sản, lúa gạo, cây ăn quả, du lịch sông nước, kinh tế biển đảo,...
Để thực hiện tốt nhóm giải pháp này, các cấp ủy, chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, điều hành thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tập trung làm rõ về sự cần thiết và những lợi ích của liên kết vùng để giúp các chủ thể sản xuất - kinh doanh hiểu biết đúng và giữ vững niềm tin trong các hoạt động liên kết sản xuất, hợp tác trên tinh thần chia sẻ nguồn lực, hài hòa lợi ích, ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực mà vùng có lợi thế phát triển trước để từ đó lan tỏa ra các địa phương, các vùng khác. Chính quyền các địa phương cân đối, bố trí ngân sách thích đáng cho công tác tuyên truyền; các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp,… đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia liên kết sản xuất.
Bên cạnh đó, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần chú trọng phối hợp để làm tốt công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức và khai thác tốt các phương tiện truyền thông xã hội như Zalo, Facebook… để làm công tác tuyên truyền; củng cố và phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp để qua đó tuyên truyền, vận động các thành viên thực hiện, đa dạng hóa các hình thức liên kết sản suất.
Nhóm giải pháp tạo nhu cầu liên kết vùng
Điều kiện để liên kết vùng hình thành và phát triển là phân công lao động xã hội phải ở một trình độ cao, mỗi bên tham gia liên kết sở hữu thế mạnh riêng. Các bên liên kết cần những thế mạnh riêng đó của nhau để tạo ra sức mạnh mới trong một mô hình tổ chức sản xuất mới với quy mô lớn hơn, cho phép khai thác, tân dụng tốt những tiềm năng thế mạnh của nhau, cùng mang lại hiệu quả sản xuất - kinh doanh cao hơn so với làm ăn riêng lẻ trước đó.
Hiện nay, các chủ thể sản xuất ở ĐBSCL phần lớn có trình độ công nghệ còn thấp, quy mô sản xuất nhỏ, tự mình có thể tổ chức quá trình sản xuất và tái sản xuất một cách độc lập mà chưa thật sự có nhu cầu liên kết sản xuất. Do vậy, muốn thúc đẩy liên kết sản xuất, liên kết vùng, trước tiên cần tạo ra nhu cầu liên kết trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất, từ đó xây dựng những hình thức liên kết sản xuất phù hợp.
(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để phát triển lực lượng sản xuất. Giải pháp này đòi hỏi phải giữ ổn định chính trị, kinh tế, xã hội để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo lập, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như: vốn, tài nguyên thiên nhiên; phát triển khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước.
(2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề này đang là yêu cầu cấp bách đối với các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL - nơi vẫn được đánh giá là “vùng trũng” về giáo dục - đào tạo của cả nước. Trong khi đó nguồn nhân lực chất lượng cao lại là nhân tố quyết định đến tiến độ, chất lượng tiếp thu công nghệ mới, hiện đại mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem đến. Đây cũng là yếu tố quyết định đến việc khai thác, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác. Xét đến cùng, con người là nhân tố quyết định của mọi sự thành công. Vì thế, đây là giải pháp căn bản quyết định đến thành công của liên kết vùng. Trong đào tạo nguồn nhân lực, cần chú ý đến trình độ, kỹ năng, số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp với cơ cấu kinh tế và tiềm năng thế mạnh của vùng, từng địa phương; đào tạo theo hướng mở, hội nhập, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.
(3) Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ. Lĩnh vực này ở ĐBSCL còn những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến việc xây dựng, phát triển các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, có quy mô sản xuất lớn. Muốn tạo ra sự liên kết vùng thực chất và hiệu quả, cần phải tăng cường hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần chú trọng cải tiến cơ chế, chính sách hỗ trợ cho việc tạo lập thị trường cho hoạt động khoa học - công nghệ; huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ; tăng cường nguồn nhân lực khoa học - công nghệ; kiểm soát chặt chẽ các quá trình chuyển giao công nghệ; có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ,...
Thực hiện nhóm giải pháp trên nhằm chuyển dần từ mô hình sản xuất nhỏ hiện nay ở ĐBSCL sang mô hình tổ chức sản xuất lớn, tạo nền tảng làm nảy sinh nhu cầu liên kết sản xuất, liên kết vùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thay đổi mô hình tổ chức sản xuất theo hướng hiện đại, quy mô lớn phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, điều cần chú ý khi thực hiện là trình tự tổ chức liên kết sản xuất phải đi từ thấp đến cao, phải phù hợp và tuân thủ nghiêm ngặt quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không được chủ quan, nóng vội, áp đặt.
Nhóm giải pháp về đánh giá tiềm năng, thế mạnh, lựa chọn đối tác, mô hình liên kết vùng
Nhóm giải pháp này nhằm xác định những lĩnh vực nào, những ngành nào cần ưu tiên liên kết; những lĩnh vực nào, những ngành nào mà vùng có khả năng tự thực hiện. Đây là cơ sở quan trọng cho công tác quy hoạch, xác định kế hoạch cụ thể trong thực hiện liên kết, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, liên kết thiếu trọng tâm, trùng lắp, gây lãng phí nguồn lực. Cần làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
(1) Tiến hành điều tra, khảo sát các nguồn lực phát triển của vùng một cách chi tiết, cụ thể. Từ đó, xác định điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế cạnh tranh, cơ hội nổi trội của từng địa phương để định ra những khả năng, nội dung cần liên kết; chủ động xác định ngành kinh tế, tìm kiếm đối tác, lựa chọn mô hình liên kết sản xuất phù hợp, nhằm khắc phục tình trạng lúng túng, dàn trải, hình thức, kém hiệu quả trong liên kết sản xuất.
(2) Tiến hành quy hoạch và xây dựng các kế hoạch cho phát triển liên kết. Trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của địa phương sẽ tiến hành quy hoạch phát triển, xây dựng lộ trình cho các chương trình, kế hoạch liên kết. Trong việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch, chương trình, kế hoạch liên kết cần đổi mới tư duy theo hướng phục vụ liên kết theo mô hình chuỗi giá trị hàng hóa có ưu thế cạnh tranh và có phân công, hợp tác giữa địa phương trong vùng. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp “đầu vào” ngành nông nghiệp có lợi thế, gắn với phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản có công nghệ tiên tiến để vừa đáp ứng việc giải quyết “đầu ra” cho nông sản của vùng ĐBSCL, vừa đáp ứng yêu cầu của trị trường.
Để định vị rõ các ngành trọng điểm và các ngành hỗ trợ trong chuỗi hàng hóa và dịch vụ của vùng, cần thực hiện tốt các công việc sau: (i) Có sự phối hợp tốt giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng; (ii) Việc xây dựng quy hoạch ngành, vùng và quốc gia phải được thực hiện bởi đơn vị tư vấn độc lập có uy tín trong và ngoài nước; (iii) Việc quản lý thực hiện quy hoạch phải được thực hiện bằng pháp luật hoặc các công cụ tài chính mạnh; (iv) Nên có chính sách hỗ trợ đối với những nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo đúng quy hoạch của Nhà nước; (v) Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng cho vùng kém phát triển, nhưng phải bảo đảm liên kết được giữa các vùng. Chú trọng đầu tư công đối với các công trình giao thông kết nối các tỉnh trong nội vùng ĐBSCL, giữa vùng ĐBSCL với các vùng trong nước và các nước trong khu vực ASEAN.
(3) Lựa chọn mô hình, nội dung, hình thức liên kết. Việc lựa chọn này có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của liên kết vùng. Điều đó đòi hỏi các chủ thể sản xuất phải chủ động xác định nội dung, hình thức và mô hình liên kết sản xuất. Các nhà khoa học, nhà quản lý cần chú trọng nghiên cứu để gợi mở, định hướng, dự báo tốt xu hướng phát triển liên kết. Giải pháp này nếu thực hiện tốt sẽ giúp các chủ thể liên kết sản xuất ổn định mô hình sản xuất lâu dài và hiệu quả.
(4) Lựa chọn đối tác và phương thức phân phối lợi ích. Lựa chọn đối tác, xác định phương thức phân phối lợi ích trong liên kết giúp lựa chọn được đối tác mạnh, có năng lực để thực hiện liên kết thực chất, hiệu quả; hạn chế tình trạng chọn nhầm đối tượng kém năng lực, thiếu tính ổn định, bền vững trong liên kết. Xác định phương thức phân phối lợi ích hài hòa, thỏa đáng với công sức đóng góp của mỗi bên vào chuỗi giá trị hàng hóa là một nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho liên kết bền vững. Trong liên kết sản xuất sẽ có nhiều chủ thể tham gia, với lợi ích khác nhau. Vì thế, cần có được sự đồng thuận, hướng tới hài hòa lợi ích chung giữa các bên tham gia liên kết, đặt lợi ích chung toàn vùng lên trên lợi ích riêng từng địa phương.
Để thực hiện giải pháp này, các nhà quản lý, nhà khoa học cần tạo lập và cung cấp tốt thông tin về xu hướng phát triển các ngành nghề, lĩnh vực; về thị trường; về mặt mạnh, mặt yếu của các chủ thể có khả năng lựa chọn làm đối tác để các địa phương, các doanh nghiệp chủ động lựa chọn đối tác liên kết phù hợp.
Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách hỗ trợ liên kết vùng
Cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng, tạo động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển liên kết vùng nói riêng. Thực tế những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới có tác động tích cực đến phát triển liên kết vùng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cơ chế, chính sách đó cũng đã và đang bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa như mong muốn. Do đó, để tiếp tục phát triển liên kết vùng nói chung, liên kết vùng ĐBSCL nói riêng có hiệu quả, đòi hỏi cần phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển liên kết vùng.
Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hành lang pháp lý từ Trung ương đến địa phương về liên kết vùng, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho phát triển; xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh doanh mới từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho phát triển liên kết vùng phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện chính sách như: hạn điền, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, môi trường, an sinh xã hội, thị trường,… Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng cho các hình thức liên kết vùng phát triển.
Trên đây là hệ thống các giải pháp cơ bản cho phát triển liên kết vùng. Mỗi nhóm giải pháp và từng giải pháp cụ thể có một vai trò nhất định, tương tác cho nhau. Trong quá trình thực hiện không nên xem nhẹ nhóm giải pháp nào mà nên thực thi đồng bộ. Thực hiện tốt các nhóm giải pháp này sẽ giúp cho các hình thức liên kết trong sản xuất ở vùng ĐBSCL phát triển dần từ trình độ thấp, quy mô nhỏ đến trình độ cao, quy mô lớn, liên kết đa ngành nghề, hướng đến một nền sản xuất lớn, hiện đại, văn minh./.
Liên kết vùng để đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững và thịnh vượng (kỳ 1)  (04/05/2021)
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam  (21/04/2021)
Quản trị an ninh các phương tiện truyền thông xã hội vì sự phát triển bền vững đất nước  (15/04/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay