Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
TCCS - Từ quá trình vừa cải cách, vừa tiếp cận các quy định của thương mại quốc tế, chúng ta đã bước vào sân chơi hàng đầu thế giới, tham gia thiết lập những chuẩn mực tiên tiến cho thương mại. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã phản ánh quyết tâm cải cách, đổi mới và ghi nhận thành tựu phát triển, sự trưởng thành về nhận thức và năng lực của Việt Nam sau quá trình 20 năm liên tục tích cực và chủ động hội nhập có định hướng vào kinh tế thế giới.
Với việc ký kết và thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) qua nhiều năm đàm phán, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành những mục tiêu quan trọng nhất trong Chiến lược đàm phán hiệp định thương mại tự do giai đoạn 2010 - 2020. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị tác động nặng nề bởi chiến tranh thương mại và đại dịch Covid-19, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần đưa Việt Nam vào nhóm nhỏ các nền kinh tế thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương. Năm 2020, xuất khẩu đạt 281 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó có phần đóng góp quan trọng của thương mại với các thị trường hiệp định thương mại tự do (FTA) mới ký kết; 15 FTA được thực thi cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi khi tiếp cận thị trường ở trên 50 quốc gia, bao gồm hầu hết các đối tác thương mại lớn nhất, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu không bị yếu tố khách quan do Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), chúng ta đã có thể trở thành quốc gia duy nhất có FTA với tất cả 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đặc biệt, các hiệp định CPTPP, EVFTA được coi là các FTA thế hệ mới, phù hợp xu thế phát triển của thương mại hiện đại. Tính chất “mới” của các hiệp định này bao gồm mức độ tự do hóa cao cho thương mại và đầu tư cùng các quy tắc thương mại tiên tiến, mang tính cải cách vượt ra ngoài khuôn khổ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tồn tại một phần tư thế kỷ. Bởi vậy, các hiệp định này không chỉ mở ra các cơ hội thương mại tiềm tàng với các nền kinh tế phát triển mà còn góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, hoàn thiện môi trường thương mại và đầu tư của nước ta. Đó chính là giá trị quan trọng nhất mà các hiệp định này đóng góp vào thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược phát triển lâu dài của Việt Nam.
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới phản ánh thành tựu 20 năm hội nhập chủ động, liên tục, có định hướng của Việt Nam với kinh tế thế giới
Năm 2000, Việt Nam và Mỹ ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA). Hiệp định này không chỉ mở cửa cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, mà còn khởi đầu cuộc cải cách sâu rộng, mang tính cách mạng thể chế thương mại của Việt Nam vào thời điểm đó. Với những hiệu ứng BTA tạo ra cho môi trường thương mại Việt Nam cũng như thương mại giữa Việt Nam với các đối tác, đây có thể coi là bước khởi đầu thực sự có ý nghĩa cho tiến trình Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới. Mỹ đồng ý để Việt Nam được hưởng Quy chế Thương mại bình thường (NTR) trên cơ sở gia hạn hằng năm bởi Tổng thống Mỹ. Theo đó, Việt Nam được hưởng đãi ngộ tương đương các thành viên WTO, mặc dù vào thời điểm đó, chúng ta chưa phải là thành viên của tổ chức này. Nhưng đổi lại, Việt Nam phải cam kết thực hiện một loạt những cải cách chính sách thương mại theo các nguyên tắc cơ bản của WTO. Những nguyên tắc tuy đã thành thông lệ thương mại quốc tế nhưng còn xa lạ với các cơ quan quản lý Việt Nam thời điểm đó, như không phân biệt đối xử, loại bỏ các biện pháp quản lý số lượng, minh bạch trong cấp phép, xác định trị giá tính thuế hải quan, các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại,... Mỹ đã tài trợ riêng một dự án để hỗ trợ Việt Nam rà soát và xác định các văn bản pháp lý phải sửa đổi hoặc ban hành mới(1). Số lượng hàng chục luật và văn bản dưới luật cần phải sửa đổi và ban hành liên quan tới việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam và Mỹ cho thấy, mức độ tác động của Hiệp định này tới cơ chế quản lý thương mại của Việt Nam vào thời điểm đó. Tác động của những cải cách mà BTA đem lại cho môi trường kinh doanh vượt xa giá trị có thể định lượng của các cam kết cắt giảm thuế quan. Những cải cách nhằm thiết lập môi trường thương mại minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh đã góp phần tháo dỡ những quy định lạc hậu của cơ chế bao cấp đang kìm nén kinh tế thị trường, tạo xung lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Những cải cách này cùng với quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý gia nhập WTO đã tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế liên tục của Việt Nam nói chung cũng như xuất khẩu nói riêng, ngay cả trong những giai đoạn kinh tế toàn cầu bị suy thoái. Ý nghĩa của BTA không chỉ giới hạn trong phạm vi quan hệ thương mại song phương mà tác động tới toàn bộ quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các đối tác trên toàn thế giới.
Một số quy định khá mới mẻ và dường như rất khó đáp ứng, nhưng đã nhanh chóng đi vào thực tiễn giúp đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và được doanh nghiệp đón nhận, như bãi bỏ chế độ hai giá, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, thực hiện trị giá tính thuế hải quan, minh bạch cấp phép... Đơn cử như các điều kiện về lao động để hàng dệt - may có thể xuất khẩu vào thị trường Mỹ khi đi vào vận hành đã góp phần cải thiện điều kiện sống, làm việc của người lao động, góp phần tăng năng suất, hiệu quả công việc; xác lập những chuẩn mực mới cho môi trường lao động. Luật Doanh nghiệp năm 1999 vẫn được coi là một trong những luật thành công nhất của Việt Nam. Các quy định lần đầu tiên được pháp luật công nhận về quyền tự do kinh doanh, quyền hoạt động sinh lời và sở hữu tài sản có từ hoạt động kinh doanh hợp pháp, quyền bình đẳng của các loại hình doanh nghiệp trước pháp luật... đã dẫn đến sự ra đời của 20.000 doanh nghiệp ngay trong năm đầu tiên Luật có hiệu lực. Con số này tương đương tất cả số lượng doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế trước đó. Trong những năm tiếp theo, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng trưởng trung bình ở mức 117%. Năm 2019, Việt Nam đã có khoảng 760.000 doanh nghiệp đang hoạt động. Đội ngũ các doanh nghiệp này đã tiên phong hiện thực hóa các cơ hội được hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thành mức tăng trưởng ấn tượng kim ngạch xuất khẩu.
Trong quá trình đàm phán gia nhập và thực thi các cam kết WTO, khuôn khổ pháp luật quản lý thương mại của Việt Nam được tiếp tục hoàn thiện. Gần 20 luật được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới đã góp phần nâng cao tính hấp dẫn và sức cạnh tranh của môi trường đầu tư. Đầu tư nước ngoài tăng vọt ngay sau khi Việt Nam cơ bản kết thúc đàm phán gia nhập cho thấy môi trường thương mại minh bạch, cạnh tranh bình đẳng có sức hấp dẫn đầu tư mạnh hơn các chính sách bảo hộ hoặc ưu đãi.
Song song với đàm phán gia nhập WTO, chúng ta cũng đã ký kết FTA với các đối tác thương mại hàng đầu ở khu vực: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga... Các hiệp định này đều dựa trên các nguyên tắc của WTO, nên mặc dù góp phần quan trọng thúc đẩy thương mại với các đối tác ký kết, nhưng không tạo ra được những bước đột phá mới về thể chế thương mại. Thể chế thương mại trong suốt giai đoạn từ khi Việt Nam gia nhập WTO tới nay vẫn vận hành trên những nguyên tắc của tổ chức này. Bên cạnh đó, các hiệp định FTA tập trung vào đối tác khu vực khiến cán cân thương mại của Việt Nam có xu hướng mất cân đối, nghiêng về châu Á. Chiến lược đàm phán FTA của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định những thành tựu và tồn tại của các FTA đã ký kết trong giai đoạn trước đó và đặt mục tiêu ký kết các FTA với các nền kinh tế phát triển nhằm hỗ trợ mục tiêu công nghiệp hóa của Việt Nam và giảm sự lệ thuộc thương mại vào một khu vực. Chiến lược đàm phán FTA đã tạo cơ sở định hướng để Việt Nam xúc tiến các FTA với sự có mặt của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Ca-na-đa... Các hiệp định CPTPP và EVFTA đã thực sự thiết lập nên những tiêu chuẩn và luật lệ mới cho thương mại quốc tế được kỳ vọng sẽ đem lại động lực tăng trưởng cho thương mại giữa các quốc gia thành viên. Đối với Việt Nam, hơn 10 năm sau công cuộc cải cách thể chế thương mại theo WTO, chúng ta lại tiến hành một cuộc cải cách lớn. Không chỉ Việt Nam mà hầu như tất cả các quốc gia ký kết, ở một mức độ nào đó, đều đã phải thực hiện các thủ tục sửa đổi, ban hành các văn bản pháp lý để thực thi hiệp định. Điều này khẳng định tính tiên phong của các hiệp định thế hệ mới. Từ quá trình vừa cải cách, vừa học hỏi để đàm phán tuân thủ các quy tắc thông thường của thương mại quốc tế, chúng ta đã bước vào sân chơi hàng đầu thế giới, tham gia thiết lập những chuẩn mực tiên tiến cho thương mại. Xét từ góc độ này, CPTPP và EVFTA không đơn thuần có ý nghĩa thương mại.
Các hiệp định thương mại thế hệ mới đã thiết lập các tiêu chuẩn mới cho tự do hóa thương mại
Trước hết, các FTA thế hệ mới hướng tới mục tiêu tự do hóa hoàn toàn thương mại. Trên thực tế, CPTPP và EVFTA đã đạt mức độ tự do hóa gần như 100% hàng hóa. Hầu hết thuế quan được loại bỏ sau 5 - 7 năm từ khi Hiệp định có hiệu lực. Một tỷ lệ nhỏ các mặt hàng nông nghiệp được coi là nhạy cảm đang bị quản lý bằng hạn ngạch hoặc thuế nhập khẩu cao được chuyển sang quản lý bằng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch 0%. Các mặt hàng truyền thống chúng ta có thế mạnh, như dệt may, da giày, thủy sản... tiếp tục có cơ hội tăng trưởng xuất khẩu nhờ cắt giảm thuế quan và các cơ chế thuận lợi hóa thương mại. Đặc biệt, việc mở cánh cửa vào thị trường EU cho các sản phẩm nông sản có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Có thể kim ngạch xuất khẩu đạt được từ các thỏa thuận mới về nông sản, như gạo, tỏi, tinh bột sắn, nấm, mật ong... không lớn nhưng nó được tạo ra hoàn toàn từ nguồn lực trong nước và có ý nghĩa xã hội, giúp cải thiện thu nhập cho một bộ phận nông dân ở những vùng khó khăn. Trong bối cảnh các nước phát triển đang áp dụng rất nhiều biện pháp bảo hộ đối với nông nghiệp, mức thuế trong hạn ngạch 0% bảo đảm cho chúng ta một thị phần nhất định trên thị trường nông sản nhập khẩu của các nước thành viên FTA. Bên cạnh đó, việc loại bỏ thuế suất với các mặt hàng nông sản chế biến sẽ khuyến khích công nghiệp thực phẩm đầu tư sản xuất các mặt hàng cho thị trường này, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nông sản theo hướng gia tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến.
Trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, mức độ tự do hóa cao thể hiện ở cách tiếp cận “chọn bỏ” so với cách tiếp cận “chọn cho” truyền thống trong WTO và các FTA trước đây chúng ta ký kết. Nói cách khác, nhà đầu tư nước ngoài từ chỗ chỉ được kinh doanh những lĩnh vực được phép giờ đây được kinh doanh tất cả những lĩnh vực không bị hạn chế theo hiệp định. Các nước tham gia hiệp định phải đưa ra biểu cam kết về đầu tư trong đó liệt kê các biện pháp hạn chế (NCM - non-conforming measures). Các nước thành viên bị ràng buộc bởi mức độ mở cửa này và không được phép đưa ra các biện pháp mới mang tính hạn chế hơn. Ngoài ra, nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” (rachet) sẽ khiến môi trường thương mại chỉ có thể ngày một thông thoáng hơn. Một khi thành viên ký kết tự nguyện nới lỏng NCM nào đó thì sẽ phải giữ nguyên mức độ mở cửa mới, không được phép quay trở lại áp dụng các biện pháp hạn chế hơn.
Thứ hai, CPTPP và EVFTA chứa đựng rất nhiều quy định điều chỉnh chính sách thương mại trong nước của các quốc gia thành viên. Mục đích nhằm tạo dựng môi trường thương mại minh bạch, cạnh tranh, bình đẳng; bảo đảm giá trị của các thỏa thuận tự do thương mại không bị suy giảm bởi các biện pháp bảo hộ được thiết lập nên tại thị trường nội địa. Minh bạch là yêu cầu xuyên suốt mọi lĩnh vực của các hiệp định CPTPP và EVFTA. Hầu hết các chương hiệp định đều có điều khoản về minh bạch: công bố thông tin, cập nhật thông tin trên các trang mạng chính thống, quyền tiếp cận thông tin của doanh nghiệp, của xã hội... Qua đó, các doanh nghiệp và xã hội nắm được các chủ trương, chính sách, có cơ hội tham gia bày tỏ quan điểm và giám sát việc thực thi.
Yếu tố cạnh tranh là một phần cốt lõi của kinh tế thị trường, giúp thị trường vận hành hiệu quả. Nhằm xác lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, CPTPP và EVFTA có các quy định nhằm xác lập sự bình đẳng giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế về địa vị pháp lý cũng như quyền được tham gia vào các hoạt động thương mại. Nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN - Most favoured nation) là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO và nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT - National Treatment) được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình. Nguyên tắc Đối xử quốc gia bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường; không được có hành vi phản cạnh tranh khi có vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư. Nhà nước không trợ cấp quá mức cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước đến mức gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nước khác. Các quy định về đầu thầu tăng thêm tính minh bạch và cạnh tranh trong việc mua sắm công; tạo thêm lựa chọn cho các cơ quan sử dụng ngân sách và hạn chế lãng phí, tiêu cực. Trong cam kết của mình, Việt Nam đưa ra danh mục 21 cơ quan Trung ương, 38 đơn vị sự nghiệp và 34 bệnh viện sẽ cho phép doanh nghiệp các nước thành viên tham gia đấu thầu các gói hàng hóa, dịch vụ, xây lắp có giá trị từ một ngưỡng được quy định trong hiệp định. Phù hợp xu thế phát triển kinh tế tri thức, các FTA thế hệ mới đều tăng cường mức độ bảo hộ các tài sản trí tuệ so với các quy định của WTO. Thời gian và mức độ bảo hộ đối với chủ sở hữu sáng chế dược phẩm, quyền tác giả... được tăng lên. Các nước phải có các biện pháp thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và các quyền liên quan tại biên giới. Đồng thời bắt buộc xử lý hình sự đối với vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, tập trung vào các vi phạm đối với nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và quyền liên quan. Ngoài ra, việc đăng ký xác lập bản quyền cần phải đơn giản, minh bạch, thuận tiện và khuyến khích ứng dụng điện tử. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được củng cố sẽ tăng cường hiệu quả cuộc chiến chống hàng giả, hàng nhái và khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Thứ ba, các FTA thế hệ mới luôn coi trọng mục tiêu phát triển bền vững. Điều này thể hiện ở các quy định không thuộc phạm trù thương mại (môi trường, lao động...) nhưng sẽ bị ràng buộc thực hiện bởi các biện pháp thương mại. CPTPP và EVFTA không đặt ra những yêu cầu mới so với các tiêu chuẩn quốc tế chung về lao động và môi trường. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tham gia các điều ước quốc tế cụ thể đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi trong lĩnh vực này. Giá trị gia tăng của các FTA thế hệ mới đem lại cho các quy định này là nâng cao tính thực thi khi chuyển hóa chúng thành những nghĩa vụ bắt buộc được bảo đảm bằng các công cụ về kinh tế, cơ chế giải quyết tranh chấp và các chế tài thương mại.
Thứ tư, CPTPP và EVFTA đề cao vai trò doanh nghiệp và tầm quan trọng của việc thiết lập các cơ chế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các lợi ích của tự do thương mại. Đây là cách tiếp cận tiến bộ và thực tiễn, bởi doanh nghiệp chính là người đưa các cam kết vào cuộc sống. Mức độ doanh nghiệp khai thác các cam kết là thước đo giá trị của hiệp định. Nhằm cung cấp các thông tin về hiệp định hoặc các thông tin hữu ích cho doanh nghiệp để thực thi, các bên ký kết có nghĩa vụ duy trì cổng thông tin điện tử công khai hoặc trang tin điện tử. Trong CPTPP, Ủy ban về các vấn đề doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) bao gồm đại diện chính phủ của các bên sẽ thường xuyên trao đổi về các biện pháp hỗ trợ nâng cao năng lực, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nước ngoài không phải chịu áp đặt các quy định về thực thi (tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu, sử dụng nguyên liệu trong nước, chuyển giao công nghệ bắt buộc...) và có quyền sử dụng các cơ chế trọng tài quốc tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Đặc biệt, các hiệp định này đều có những quy định chi tiết về đơn giản hóa thủ tục hải quan và chứng nhận xuất xứ. Các doanh nghiệp xuất khẩu được phép xuất trình chứng từ điện tử, làm thủ tục trước khi hàng đến cảng, áp dụng cơ chế một cửa, thực hiện quản lý rủi ro và hậu kiểm, cho phép áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ... Các quy định mang tính thuận lợi hóa thương mại này đồng nghĩa với nghĩa vụ chứng minh, giải trình về hàng hóa của doanh nghiệp được chuyển thành trách nhiệm giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý. Các doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí giao dịch, thời gian làm thủ tục. Đồng thời, tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp nghiêm túc tuân thủ các quy định quản lý, thực thi các quy trình quản lý tài chính chuẩn mực. Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý của các cơ quan hành chính nặng nề hơn. Đòi hỏi các cơ quan này phải hiện đại hóa quy trình, nâng cao năng lực và đổi mới phương thức quản lý.
Ý nghĩa của các FTA thế hệ mới đối với phát triển bền vững
Các hiệp định thế hệ mới ngay khi đi vào thực thi đã đem lại những tín hiệu tích cực về thương mại. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường trước đây chúng ta chưa có FTA (Ca-na-đa, Mê-hi-cô) tăng ở mức từ 20 đến 30% trong năm đầu tiên thực thi. Năm 2020, bất chấp tác động bất lợi của đại dịch Covid-19, xuất khẩu sang các thị trường này vẫn tăng từ 12 đến 15%. Đối với EVFTA, 5 tháng đầu tiên thực thi (từ tháng 8 đến tháng 12-2020) đã có 62.500 bộ Chứng nhận xuất xứ EUR.1 được cấp; cho phép 2,35 tỷ USD hàng hóa xuất khẩu sang thị trường EU (xấp xỉ 15% kim ngạch xuất khẩu cùng kỳ) được hưởng ưu đãi. Nhờ vậy, kim ngạch xuất khẩu sang EU đã tăng 1,6% so với cùng kỳ 2019, thời điểm chưa xuất hiện dịch bệnh. Những kết quả khả quan bất chấp tình trạng suy thoái của kinh tế toàn cầu cho thấy sức hấp dẫn của các thị trường mới khai thông và tiềm năng, sự nhạy bén của các doanh nghiệp. Với việc thực thi EVFTA chắc chắn EU sẽ nhanh chóng vươn lên thứ hạng cao hơn trong danh sách các bạn hàng của Việt Nam. Nông sản Việt Nam có cơ hội to lớn thâm nhập vào thị trường tiềm năng, được giá này. Đồng thời, người tiêu dùng Việt Nam sẽ tiếp cận được các sản phẩm tiêu dùng châu Âu chất lượng cao với giá rẻ hơn.
Ngoài ra, mạng lưới các FTA đã giúp Việt Nam giảm thiểu tác động của sự suy giảm hệ thống thương mại đa phương. Chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng vai trò của hệ thống thương mại đa phương. Các nước lớn đã tùy ý áp đặt các biện pháp bảo hộ bất chấp các quy định, nguyên tắc của WTO và vô hiệu hóa các luật lệ, cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Các nền kinh tế nhỏ và có mức độ mở cao như Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương khi những nền tảng pháp lý cho thương mại quốc tế vốn tồn tại bao năm qua bị suy giảm. Trong bối cảnh đó, các FTA đã phát huy vai trò diễn đàn đối thoại cũng như khuôn khổ pháp lý để giải quyết các vấn đề thương mại giữa Việt Nam và các đối tác hàng đầu của mình, giúp chúng ta giảm thiểu các tranh chấp ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại.
Tuy nhiên, lợi ích lâu dài và có ý nghĩa nhất đối với phát triển là những quy tắc mang tính cải cách đối với môi trường thương mại trong các hiệp định thế hệ mới. Kể từ thời kỳ gia nhập WTO, chúng ta mới lại có một đợt rà soát tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại như vừa qua. Liên quan đến CPTPP, Bộ Tư pháp đã chủ trì cùng các bộ, ngành rà soát 256 văn bản luật và dưới luật, kiến nghị sửa đổi 12 văn bản (trong đó có 8 luật) ban hành mới 5 văn bản. Đối với EVFTA, trên cơ sở rà soát 219 văn bản, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi 4 văn bản (2 luật) và ban hành mới 4 văn bản. Đó là chưa kể tới hàng chục điều khoản trong cả hai hiệp định sẽ được áp dụng trực tiếp do đã được quy định đủ rõ ràng và không xung đột với pháp luật hiện hành. Số lượng các văn bản rà soát và cần sửa đổi, ban hành mới cho thấy ý nghĩa sâu rộng và mức độ ảnh hưởng của các hiệp định này tới nền kinh tế. Cũng cần lưu ý rằng, việc sửa đổi pháp luật không chỉ đặt ra với Việt Nam. Các nước thành viên ký kết các FTA kể trên, bao gồm cả các nền kinh tế hàng đầu, như Nhật Bản, Ca-na-đa, thành viên EU,... đều phải thực hiện công việc xây dựng pháp luật để thực thi hiệp định ở các mức độ khác nhau để cập nhật những yếu tố tiên phong của các hiệp định này vào nội luật. Khuôn khổ pháp luật thương mại minh bạch, cạnh tranh, thủ tục thuận lợi... sẽ tạo hiệu ứng sâu rộng, lâu dài để nền kinh tế vận hành hiệu quả, bền vững. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 - 2020 của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ba rào cản khiến nhà đầu tư quan ngại nhất khi tiếp cận thị trường các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam là thủ tục phê duyệt đầu tư, quy định về hàm lượng nội địa và quy định về lao động người nước ngoài. Yếu tố nhân công rẻ chỉ xếp thứ 11. Bởi vậy, việc thực thi nghiêm túc những cam kết đầu tư trong các FTA thế hệ mới kể trên cùng với lợi ích tiềm tàng từ mạng lưới FTA bao phủ Việt Nam đang sở hữu sẽ cho chúng ta những lợi thế to lớn trong thu hút luồng đầu tư đang có xu hướng dịch chuyển xuống khu vực Nam Á. Những giá trị tiên phong về tự do thương mại và cải cách tạo nên sức hấp dẫn của các FTA này với thế giới. Một số nền kinh tế hàng đầu đã bày tỏ ý định sẽ xem xét khả năng tham gia CPTPP.
Một ý nghĩa không thể bỏ qua là quá trình đàm phán các FTA thế hệ mới đã giúp đào tạo, trưởng thành đội ngũ chuyên gia thương mại quốc tế. Hiệp định CPTPP và EVFTA là những hiệp định mang tính tiên phong trong tiếp cận các vấn đề thương mại và đồng thời phức tạp bậc nhất về kỹ thuật. Các cán bộ đàm phán của chúng ta đã từng bước học hỏi, trưởng thành để cùng các đồng nghiệp quốc tế xây dựng nên những tiêu chí thương mại tiên tiến đáp ứng xu thế phát triển của thương mại hiện đại. Những kiến thức, kinh nghiệm đàm phán, tư duy thời đại là nguồn lực quý giá để đội ngũ này tiếp tục đóng góp vào công tác quản lý, hoạch định chính sách, hiện thực hóa lợi ích từ các FTA thế hệ mới./.
-----------------------------
(1) Chương trình hỗ trợ kỹ thuật thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (Dự án STAR)Quản trị an ninh các phương tiện truyền thông xã hội vì sự phát triển bền vững đất nước  (15/04/2021)
Hội nghị lần thứ 3 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu  (14/03/2021)
Ba chính sách trụ cột chính để phát huy nguồn lực văn hóa trong xây dựng Thủ đô sáng tạo  (22/02/2021)
An ninh nguồn nước và an toàn hồ đập: Tư duy, tầm nhìn, hành động mới  (02/01/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay