Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trên địa bàn Hà Nội
TCCS - Những năm qua, công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử của Hà Nội có những thay đổi rõ rệt, tuy nhiên, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Vì vậy, thời gian tới thành phố Hà Nội cần có các giải pháp sát với thực tế nhằm nâng cao năng lực sản xuất, chuyển đổi từ sản xuất lắp ráp đơn thuần sang sản xuất chế tạo và lắp ráp có giá trị gia tăng cao hơn.
Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trên địa bàn thành phố Hà Nội
Sau hơn 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử Hà Nội vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5% - 10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI trong ngành điện tử, điện máy đang đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh nghiệp hỗ trợ rất ít so với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa bảo đảm nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh.
Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, quy trình sản xuất kém...) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa.
Về cơ cấu nhóm sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: Doanh nghiệp nội địa chỉ cung cấp các loại linh kiện phụ tùng đơn giản, hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng rất thấp. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ muốn phát triển phải đáp ứng được 3 yếu tố: chất lượng ổn định, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Hiện nay, rất ít các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được cả 3 yếu tố trên. Trong giai đoạn trước mắt, việc các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đóng vai trò nhà cung ứng lớp 1 cho các tập đoàn lắp ráp đa quốc gia là hết sức khó khăn, đặc biệt đối với các linh kiện và vật liệu có hàm lượng công nghệ khá.
Về đổi mới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử: các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Hà Nội đã có những nỗ lực trong đổi mới công nghệ, phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, do phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu vốn, do đó, quá trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Theo kết quả điều tra, khảo sát với 183 doanh nghiệp Việt Nam (22 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội) sản xuất linh kiện, phụ tùng điện tử của Trung tâm Phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (SIDEC, 2019), các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng công nghệ, máy móc của Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc, châu Âu và một số máy móc được chế tạo, nâng cấp trong nước. Doanh nghiệp chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, trình độ công nghệ ở mức trung bình trong khu vực, số lượng doanh nghiệp được trang bị dây chuyền máy móc hiện đại, đầu tư hệ thống phòng sạch còn hạn chế; sản xuất linh kiện, phụ tùng điện phát triển khá tốt, đặc biệt là các sản phẩm thâm dụng lao động.
Về đổi mới tổ chức sản xuất: theo đánh giá của SIDEC (2019), doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Hà Nội nhìn chung đã tích cực áp dụng các tiêu chuẩn và công cụ quản lý hiện đại vào hoạt động sản xuất, chế tạo của doanh nghiệp. Một số tiêu chuẩn quản lý chất lượng như ISO 9000, các công cụ quản lý như 5S, Kaizen được khá nhiều doanh nghiệp quan tâm, áp dụng. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng của các doanh nghiệp FDI đối với các doanh nghiệp muốn cung ứng linh kiện điện tử cho họ tại cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong nước đều gặp khó khăn trong quá trình đổi mới tổ chức, tổ chức, sắp xếp lại sản xuất do những khó khăn trong chất lượng nguồn nhân lực, thiếu vốn,... Sự thiếu hụt về cả số lượng và chất lượng nhân lực cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử chậm đổi mới công nghệ và tiếp cận với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng: Hà Nội đã và đang hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng là các khu, cụm công nghiệp hỗ trợ,... để tạo ra những điều kiện thuận lợi ban đầu cho sự phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử. Tính đến hết tháng 12-2019, Hà Nội đã và đang phát triển 17 khu công nghiệp, khu công nghệ cao với tổng diện tích gần 3.500ha. Trong đó, 9 khu công nghiệp với tổng diện tích 1.264ha đang hoạt động ổn định. Tỷ lệ lấp đầy trên 95% đất công nghiệp gồm: Khu công nghiệp Thăng Long - Nội Bài; Thạch Thất - Quốc Oai; Nam Thăng Long; Sài Đồng B; Hà Nội - Đài Tư; Quang Minh I; Phú Nghĩa; Khu công viên công nghệ thông tin... Năm 2018, các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố thu hút đầu tư được 21 dự án đầu tư mới gồm có 11 dự án FDI vốn đăng ký 13,9 triệu USD và 10 dự án trong nước với tổng vốn đăng ký 1.345 tỷ đồng; 28 dự án mở rộng vốn đăng ký 462,5 triệu USD và 106 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực thu hút đầu tư lớn nhất là điện tử và cơ khí với dự án của Công ty Điện tử Meiko Việt Nam đăng ký tăng thêm 200 triệu USD; Công ty Denso vốn đăng ký tăng thêm 120 triệu USD; Công ty Sumitomo Heavy vốn đăng ký tăng thêm 50 triệu USD; dự án dịch vụ bãi đỗ xe của Công ty HimLamBC tại khu công nghiệp Sài Đồng B vốn đăng ký 695 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, có 23 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội, trong đó những quốc gia có tỷ trọng vốn lớn như: Nhật Bản (đứng đầu với số vốn đăng ký chiếm 54%), Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký FDI. Nhiều dự án có quy mô vốn lớn từ 100 đến hơn 300 triệu USD, sử dụng công nghệ cao của các hãng Canon, Panasonic, Yamaha, Meiko,... Trong những năm qua, thu hút FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất Hà Nội đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển Thủ đô. Tuy nhiên, hiệu quả tổng thể của thu hút FDI vào Hà Nội chưa tương xứng với tiềm năng. Do đó, Hà Nội cần phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư.
Tuy nhiên, tính liên kết tại các cụm, khu công nghiệp hiện nay còn rất yếu; các khu công nghiệp chủ yếu phát triển theo mô hình khu công nghiệp đa ngành, chú ý nhiều đến việc thu hút các nhà đầu tư thứ cấp để đẩy nhanh việc lấp đầy diện tích đất cho thuê là chủ yếu; trong khi đó, công tác quy hoạch các khu công nghiệp để thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng một chuỗi cung ứng, liên kết giữa các vùng, địa phương còn chưa được quan tâm; do đó, không tận dụng được lợi thế về vị trí địa lý và kết cấu hạ tầng để phát triển các khu, cụm liên kết, các chuỗi sản xuất. Điều này dẫn đến việc, mặc dù chúng ta đã có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối thuận lợi cho phát triển ngành công nghiệp, tuy nhiên, hệ thống này chưa tạo ra được tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của ngành công nghiệp hỗ trợ.
Thông qua những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Hà Nội đã có những tác động tích cực đến sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử chính của Việt Nam. Thông qua phân tích thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử tại Hà Nội, có thể rút ra các đánh giá như sau:
- Sự tăng trưởng nhanh chóng về giá trị sản xuất, kim ngạch xuất khẩu của một số sản phẩm linh kiện điện tử là yếu tố ban đầu tích cực để thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Quá trình đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức đang diễn ra trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
- Sự thu hút FDI vào ngành điện tử có thể tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, do thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ điện tử Việt Nam mới trong giai đoạn hình thành, chưa thực sự phát triển, ngành vẫn chưa có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khoảng 10 năm gần đây. Cụ thể là:
Thứ nhất, sự thu hút FDI, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại và đổi mới tổ chức sản xuất trong hoạt động sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử là có, nhưng còn rất hạn chế, chưa tạo ra được tác động đáng kể với tăng năng suất, hiệu quả chung của nền kinh tế, và chưa tạo ra được động lực cần thiết cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian vừa qua.
Thứ hai, sự phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Hà Nội thời gian qua chưa có đóng góp đáng kể vào giá trị gia tăng của nền kinh tế Thủ đô.
Hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp hỗ trợ có tác động lớn đến sự gia tăng nhập khẩu, được thể hiện ở hệ số lan tỏa nhập khẩu cao cho thấy đây vẫn là ngành trong nước chưa có lợi thế cạnh tranh.
Hệ số liên kết yếu giữa ngành công nghiệp điện tử chính và công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử cho thấy sự phát triển công nghiệp điện tử chưa là động lực cho sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ. Vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ đối với tăng thu nhập cho người lao động còn tương đối thấp so với các ngành còn lại trong nền kinh tế.
Thứ ba, ngoài ngành công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử, các ngành sản xuất công nghiệp hỗ trợ khác vẫn chưa tạo ra động lực tích cực mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử chính. Điều này, đặt ra vấn đề trong việc xác định rõ ràng phạm vi công nghiệp hỗ trợ và đối tượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cần ưu tiên phát triển để đáp ứng cho ngành sản xuất công nghiệp điện tử trong thời gian tới.
Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử tại Hà Nội, đó là:
Số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ vẫn ít so với tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; chủ yếu tập trung vào nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa; mức độ đáp ứng của công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử cho sản xuất trong nước vẫn còn ở mức thấp, phần lớn linh kiện, phụ tùng của ngành sản xuất điện tử đều nhập khẩu từ nước ngoài hoặc được cung cấp bởi các doanh nghiệp FDI (lên tới 90%). Điều này khiến cho giá trị gia tăng toàn ngành điện tử vẫn ở mức rất thấp…
Dung lượng thị trường còn hạn chế; số lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử còn rất thiếu và yếu; hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử nói riêng đã có, tuy nhiên, chưa tạo ra được động lực tích cực thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử là do những hạn chế trong các chính sách quy hoạch, định hướng hoạt động tại các khu, cụm công nghiệp; hệ thống chiến lược, chính sách phát triển, mặc dù hệ thống văn bản chiến lược, chính sách về phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp điện tử được ban hành tương đối đa dạng, tuy nhiên, quá trình xây dựng và thực thi chính sách vẫn còn tồn tại một số thiếu sót lớn.
Giải pháp nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử Hà Nội thời gian tới
Để phát triển và nâng cao giá trị gia tăng công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử của thành phố Hà Nội trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp:
Một là, thúc đẩy tăng dung lượng cầu đối với thị trường sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử thông qua các biện pháp tăng cường cung cấp, hỗ trợ thông tin; giới thiệu, xúc tiến thương mại cụ thể đối với các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử để có thể tiếp cận và tham gia vào các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận thị trường và các khách hàng tiềm năng của mình, nắm bắt thông tin về nhu cầu của khách hàng, các tập đoàn đa quốc gia thông qua các buổi gặp gỡ, tiếp xúc tại các hội nghị, hội thảo,... được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp. Hiện tại, các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ thông tin đã được thực hiện ngày càng nhiều và phong phú thông qua các hiệp hội doanh nghiệp, ví dụ Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ; Hiệp hội các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thành phố Hà Nội, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội từ các chương trình gặp gỡ, tiếp xúc này. Các tổ chức hiệp hội cần phát huy tốt hơn vai trò cầu nối về thông tin, đầu tư và xúc tiến thương mại giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong nước với các tập đoàn, doanh nghiệp lắp ráp ở tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
Hai là, chú trọng phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp cho công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử. Nguồn nhân lực thiếu và yếu là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử khó có thể phát triển nhanh. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp càng trở nên có ý nghĩa hơn.
Về phía thành phố: Để dần nâng cao chất lượng nhân lực cho sản xuất công nghiệp nói chung, và công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử nói riêng, một mặt, cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia từ các nước công nghiệp phát triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc... hỗ trợ thành phố trong xây dựng công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, đào tạo nhân lực và hướng dẫn tiếp cận công nghệ hiện đại, chẳng hạn như bổ sung các chính sách liên quan đến ưu đãi thuế thu nhập cá nhân cho đối tượng này. Mặt khác, chúng ta cũng cần có những cơ chế, chính sách tác động để nâng cao hiệu quả trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp tại Hà Nội để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu. Việc đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực có thể được thực hiện thông qua các chính sách tạo cơ chế hợp tác, liên kết giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như Samsung, Canon ...
Về phía doanh nghiệp: Để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, một mặt, các doanh nghiệp có thể tận dụng các cơ sở đào tạo có sẵn, chẳng hạn như tại Trường Đại học Công nghiệp, các trường đại học khối kỹ thuật, các trường cao đẳng, trung cấp để đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp nói chung; và thúc đẩy sự liên kết chặt với các doanh nghiệp để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp, mời các chuyên gia để tiến hành đào tạo sâu hơn. Doanh nghiệp cũng có thể tận dụng, thu hút đội ngũ thực tập sinh đã học tập, làm việc tại các nhà máy sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử ở một số quốc gia có công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử phát triển trở về nước để làm việc tại các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử của Hà Nội.
Ba là, tăng cường khả năng thực thi các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử đã được ban hành, thông qua các biện pháp như:
Thành phố cần tăng cường các cam kết mạnh mẽ trong thực thi các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử để có thể hiện thực hóa chính sách. Thực tế cho thấy, nếu không có nền tảng chính trị cho chính sách, các chính sách này sẽ thất bại khi đối mặt với các chính sách khác làm suy yếu nó. Trước khi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, ngày 3-11-2015, của Chính phủ, “Về phát triển công nghiệp hỗ trợ” ra đời, các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử gần như không phát huy tác dụng và các cơ quan quản lý nhà nước cũng khó có thể thực thi chính sách trên thực tế do thiếu các căn cứ pháp lý để thi hành. Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ra đời thể hiện bước tiến, sự quan tâm và cam kết mạnh mẽ hơn của Nhà nước cho sự phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử nói riêng. Trong thời gian tới, nếu Chính phủ có thể luật hóa các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, chắc chắn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách./.
Thường trực Chính phủ làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế  (01/10/2021)
Cộng đồng doanh nghiệp ủng hộ chuyển trạng thái từ “không COVID” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch COVID-19”  (26/09/2021)
Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng  (18/09/2021)
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực: Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Hàn Quốc  (18/09/2021)
Petrovietnam: Khó khăn không chỉ từ dịch bệnh COVID-19  (14/09/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển