Phản ứng dây chuyền từ Oa-sinh-tơn đến Tô-ky-ô

Lê Minh Quang
20:46, ngày 05-09-2009

TCCSĐT - Ngày 30-8-2009, cuộc bầu cử Hạ viện ở Nhật Bản đã trở thành “cơn động đất chính trị”: Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã thất bại trước Đảng Dân chủ (DPJ) sau nửa thế kỷ nắm quyền. Sự kiện này có thể được ví như phản ứng dây chuyền từ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào cuối năm 2008, bởi nguyên nhân sâu xa chỉ có một: các cử tri Mỹ và các cử tri Nhật Bản đều có chung một khát vọng, đó là “thay đổi”.

Cũng giống như người dân Mỹ trong cuộc bầu cử tổng thống cuối năm 2008, các cử tri Nhật Bản mong muốn cuộc tổng tuyển cử lần này đem đến một sự thay đổi toàn diện nhằm vượt qua sự trì trệ trong xã hội Nhật Bản đã tới mức báo động. Chỉ có điều khác là ở Mỹ, Đảng Cộng hoà chịu thất bại trước Đảng Dân chủ chỉ vẻn vẹn sau hai nhiệm kỳ cầm quyền của Tổng thống G.Bu-sơ, còn Đảng LDP chịu thua cuộc sau nửa thế kỷ chèo lái con thuyền kinh tế và chính trị Nhật Bản vượt qua nhiều sóng gió.

Có thể thấy, nếu như Thượng nghị sĩ Ba-rắc Ô-ba-ma đưa ra chủ trương “thay đổi” làm khẩu hiệu tranh cử trong lần bầu cử vào đầu năm 2000, chắc chắn ông sẽ thất bại, bởi vào thời điểm đó, trong nhiều thập niên, các cử tri Mỹ đã từng quen với ý nghĩ phàm những gì thuộc về Mỹ đều là “number one”, “các giá trị Mỹ” là bất biến. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu những năm 1990, trong đó người Mỹ cho rằng, họ là “người chiến thắng”; và dường như suy nghĩ đó ngày càng được củng cố vững chắc hơn bao giờ hết.

Nhưng rồi hai nhiệm kỳ cầm quyền của Tổng thống G.Bu-sơ đã đưa nước Mỹ sa lầy và thất bại trong hai cuộc chiến tranh ở Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng, uy tín của nước Mỹ trước bạn bè và đồng minh sa sút, các “giá trị Mỹ” bị thách thức, thậm chí cả mô hình phát triển kiểu Mỹ đang được nhiều nước áp dụng cũng bị đặt dấu hỏi nghi vấn. Chính vào thời điểm đó, trên chính trường Mỹ xuất hiện Thượng nghị sĩ Ba-rắc Ô-ba-ma với chủ trương thay đổi nước Mỹ và thế giới. Ngay lập tức, các cử tri Mỹ như bị thôi miên trước cương lĩnh tranh cử “Thay đổi” của Thượng nghị sĩ Ba-rắc Ô-ba-ma và chính nó đã góp phần quan trọng đưa ông bước vào Nhà Trắng một cách ngoạn mục, một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ, bởi ông là người da màu.

Ở Nhật Bản lần này, tình hình cũng diễn ra tương tự, giống như hiệu ứng của một phản ứng dây chuyền, lan tỏa từ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ cuối năm 2008. Có thể thấy, cú huých dẫn tới “cơn động đất chính trị” ở Nhật Bản lần này cũng là khát vọng của người Nhật hướng tới sự thay đổi: thay đổi vị thế của “đất nước Mặt trời mọc” không chỉ trong trong nền kinh tế toàn cầu mà cả trong nền chính trị và an ninh của thế giới và khu vực; thay đổi một số tập quán văn hoá đã từng ăn sâu vào truyền thống của người Nhật nhưng hoàn toàn không thích hợp với một thế giới đang toàn cầu hoá mạnh mẽ.

Nhật Bản là đất nước vốn nổi tiếng bởi sự tôn trọng truyền thống, luôn cho rằng chiến lược kinh tế của LDP đã từng tạo ra một đất nước Nhật Bản thịnh vượng trong nhiều năm, sẽ tiếp tục đưa nước này vượt qua sự trì trệ và tiếp tục tăng trưởng. Trong một thời gian dài, chiến lược của LDP đã có tác dụng tạo nên sự phát triển kinh tế ngoạn mục, đưa Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau nền kinh tế Mỹ. Chiến lược đó dựa trên hai đòn bẩy có sức mạnh rất lớn: một là, thúc đẩy sản xuất bằng chính sách công nghiệp lấy xuất khẩu là trọng tâm và là hướng chủ đạo; và hai là, phân bổ đồng đều tiền của do ngành sản xuất mang lại cho khắp cả nước.

Trên thực tế, ở Nhật Bản đã diễn ra sự dịch chuyển các khoản tiền lớn từ các khu đô thị, vương quốc của các công ty và tập đoàn sản xuất lớn, tới các vùng nông thôn hẻo lánh, làm thay đổi căn bản hình ảnh đất nước. Trong thời gian đầu, chiến lược này đã từng nhanh chóng biến Nhật Bản thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Đã có lúc, người ta nói tới khả năng “nước Nhật có thể mua cả thế giới”. Tuy nhiên, từ đầu những năm 1990, “cơn bão toàn cầu hoá” đã đưa dòng thác sản xuất và thương mại ào ạt tràn qua các lục địa, làm lung lay “toà tháp kinh tế” của nước Nhật. Chiến lược công nghiệp hướng vào xuất khẩu của LDP đã từng gây ra sự bất cân bằng thương mại với các nước và vấp phải sự phản đối gay gắt từ phía Mỹ - đồng minh chiến lược của Nhật Bản, cũng như nhiều nước ở châu Âu.

Trong tình hình khủng hoảng kinh tế hiện nay, chiến lược hướng về các vùng nông thôn đã khiến ngân sách bị thâm hụt, đẩy Nhật Bản vào tình trạng suy giảm tài chính tồi tệ nhất trong số các nước công nghiệp phát triển. Một số nhà lãnh đạo LDP đã nhận ra cuộc khủng hoảng chiến lược của Đảng và thực thi nhiều chương trình cải cách nhằm khắc phục tình hình nhưng chưa thể thay đổi nền tảng cơ bản của chiến lược. Cựu Thủ tướng Giu-ni-chi-rô Kôi-du-mi (Junichiro Koizumi) trong những năm 2001-2006 đã từng thực thi một số thay đổi trong chiến lược của LDP, nhưng trên thực tế, ông chỉ mới thực hiện được những giải pháp mang tính chiến thuật là điều chỉnh lại sự cân bằng giữa hai yếu tố của chiến lược truyền thống. Đó là, tạo ra một động lực mới cho ngành sản xuất, đồng thời giảm bớt sự giúp đỡ tài chính cho các vùng nông thôn. Những thay đổi đó dường như đã đem lại kết quả nhất định: trong những năm 2002-2006, tỷ lệ tăng trưởng GDP hằng năm của Nhật Bản đạt trên 2%, một con số có tính thuyết phục. Nhưng rồi những tác động tiêu cực của những thay đổi đó bắt đầu lộ diện và dư luận Nhật Bản tỏ ra thất vọng, bởi chương trình đó đã tạo ra sự gián cách ngày càng lớn về kinh tế giữa thành thị và nông thôn, làm lung lay triết lý bình quân đã từng ngự trị trong truyền thống văn hoá của Nhật Bản.

Đúng lúc đó, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm trầm trọng thêm những khó khăn xuất phát từ chiến lược đổi mới của LDP dưới thời cầm quyền của cựu Thủ tướng Giu-ni-chi-rô Kôi-du-mi. Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu đã làm rõ một câu chuyện: hoá ra, sự hồi phục kinh tế trong thời gian gần đây của Nhật Bản không phải xuất phát từ chiến lược cải cách dưới thời cựu Thủ tướng Giu-ni-chi-rô Kôi-du-mi mà là từ “bong bóng tiêu dùng” ở Mỹ và trên thế giới. Trên thực tế, ông Giu-ni-chi-rô Kôi-du-mi vẫn duy trì chiến lược truyền thống của LDP và chưa tạo ra sự chuyển biến lớn nhằm lấy lại đà tăng trưởng kinh tế cho Nhật Bản.

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến “xứ sở Mặt trời mọc” bừng tỉnh. Nhiều người dân Nhật Bản bắt đầu nghĩ tới chuyện phải cải tổ nền kinh tế quốc gia để thoát khỏi sự trì trệ. Các chuyên gia phân tích trên thế giới đã từng cảnh báo rằng, Nhật Bản đang rơi vào tình trạng trì trệ trong hơn hai thập niên qua và sẽ tiếp tục trượt dốc nếu như chính quyền ở Tô-ky-ô không tiến hành những cải cách căn bản trong nền kinh tế của nước này.

Cùng với những mong muốn thay đổi chiến lược kinh tế, Nhật Bản còn đứng trước nhiều nhu cầu thay đổi trong các lĩnh vực khác, như quan hệ với các nước trong khu vực, trong đó quan trọng nhất là quan hệ Nhật Bản - Mỹ; hiện tượng “già hóa dân tộc Nhật Bản” đã tới mức báo động; khó khăn của thanh niên Nhật Bản trong lập nghiệp và lập gia đình. Ma-xa-ru Ta-ma-mô-tô (Masaru Tamamoto), nhà nghiên cứu cao cấp của Viện Chính sách thế giới ở Niu Oóc (Mỹ), đã từng đưa ra luận thuyết cho rằng, sự trì trệ trong xã hội Nhật Bản có gốc rễ sâu xa ở khía cạnh văn hóa. Trong những nhu cầu thay đổi đó, gần đây những cải cách trong lĩnh vực quân sự trở thành chủ đề “nóng” trên chính trường Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản không được phép thành lập bộ quốc phòng và quân đội riêng, mà chỉ được phép thành lập Cục phòng vệ. Trong hơn 50 năm qua, cùng với sự thay đổi không ngừng môi trường chiến lược trong và ngoài nước, Cục phòng vệ Nhật Bản đã từng bước phát triển và trở thành lực lượng quân sự đáng kể, góp phần quan trọng tăng cường vị thế của cường quốc kinh tế Nhật Bản, nhưng những thay đổi đó chưa thể tương xứng với vị thế của Nhật Bản là nền kinh tế chiếm vị trí số 2 trên thế giới. Ở châu Á - Thái Bình Dương và Đông Á, người Nhật cũng đang muốn có một vị thế khác, lớn hơn.

Trong bối cảnh nước Nhật đang khát khao thay đổi, ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma (Yukio Hatoyama), thủ lĩnh Đảng DPJ, đưa ra chiến lược tranh cử nhằm hướng tới những thay đổi mà xã hội Nhật Bản đang mong muốn, cũng giống như Thượng nghị sĩ Ba-rắc Ô-ba-ma đưa ra chủ trương thay đổi nước Mỹ và thế giới. Khâu đột phá cơ bản trong chủ trương thay đổi của DPJ nhằm đổi mới nước Nhật Bản là cải cách hành chính. Đây thực sự là một cuộc cách mạng với một đất nước mà ở đó bộ máy công quyền khá cồng kềnh. Ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma cam kết sẽ xóa bỏ những thể chế được gọi là “amakudari” (tiếng Nhật có nghĩa là “trời ban”) đã từng tạo ra những đặc quyền đặc lợi cho một bộ phận quan chức nhà nước và tư nhân. Đảng DPJ còn đưa ra cam kết sẽ hoá giải các bất ổn xã hội bằng các biện pháp trợ cấp cho trẻ em, cắt giảm thuế giao thông và thuế đối với doanh nghiệp nhỏ, nâng cao trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ thu nhập của nông dân và cải cách hệ thống lương hưu vốn không theo kịp với tốc độ lão hóa dân số rất nhanh ở nước này. Để làm được những điều này, sẽ cần tới 3,5% GDP của Nhật Bản, và DPJ cho rằng họ có được 95 tỉ USD từ việc tiết kiệm các công trình xây dựng công cộng và các khoản chi tiêu lãng phí khác.

Trong quan hệ với các nước, DPJ từng đưa ra tín hiệu rằng, họ sẽ tìm cách thay đổi vị thế của Nhật Bản trong quan hệ với Mỹ, theo đó, Tô-ky-ô sẽ độc lập hơn trong quan hệ với Oa-sinh-tơn. Trận chiến Trân Châu Cảng là một trong những thất bại lớn nhất của Mỹ trước quân Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai và để lại một trang đen tối trong quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hậu chiến, Mỹ đã thiết lập mối quan hệ ngày càng gắn bó và thân thiện với các chính quyền kế tiếp trên chính trường Nhật Bản, dưới sự lãnh đạo của LDP trong suốt hơn 50 năm qua. Ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma từng tuyên bố, nếu DPJ thắng cử, Nhật Bản sẽ xem xét lại vai trò của lực lượng quân đội Mỹ tại nước này. Còn ông Mai-cơn Ao-xlin (Michael Auslin), Viện Doanh nghiệp Mỹ nhận xét: “Nhật Bản sẽ độc lập hơn và sẽ không dựa dẫm vào Mỹ. Chắc chắn sẽ có một số liên minh mới và đối tác mới, có thể xích lại gần Trung Quốc và Liên hợp quốc”.

Trong quan hệ với các nước trong khu vực, DPJ chủ trương sẽ có thái độ hòa giải hơn khi nhìn nhận về quá khứ - thời chiến tranh thế giới thứ hai, và sẽ cải thiện quan hệ với các láng giềng ở châu Á - Thái Bình Dương. Bà Min-đi Cốt-lơ (Mindy Kotler) thuộc Tổ chức Quan điểm về các chính sách châu Á nhận xét: “Các vấn đề lịch sử là rất quan trọng nếu Nhật Bản muốn giữ vai trò lớn hơn trong khu vực và Nhật Bản không thể có ảnh hưởng về kinh tế và chính trị lớn hơn tại đây nếu các vấn đề đó không được dàn xếp ổn thoả”. Ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma chủ trương thực hiện học thuyết chính trị dựa trên tình bằng hữu trong chiến lược phát triển nước Nhật. Ông hy vọng có thể gạt lại đằng sau chủ nghĩa dân tộc hạn hẹp và chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến nhằm xây dựng cộng đồng Đông Á thành một “EU của châu Á”. Ngoài ra, Ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma còn chủ trương thúc đẩy đồng tiền châu Á chung, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực.

Tới lúc này, chưa thể thấy rõ toàn bộ chiến lược phát triển nước Nhật Bản dưới bàn tay chèo lái của chính phủ mới do ông Y-u-ki-ô Ha-tô-y-a-ma đứng đầu, nhưng việc DPJ giành chiến thắng chứng tỏ các cử tri Nhật Bản muốn đoạn tuyệt với chiến lược truyền thống của LDP. Cũng giống như cuộc bầu cử ở Mỹ cuối năm 2008: các cử tri Mỹ dành lá phiếu cho Thượng nghị sĩ Ba-rắc Ô-ba-ma là bởi họ cần có một sự thay đổi trong tâm trạng đã không còn tiếp tục chấp nhận tình hình hiện tại./.