Cách tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Liên minh châu Âu và một số vấn đề đặt ra đối với các nước ASEAN

PGS, TS BÙI HỒNG HẠNH
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
12:10, ngày 30-07-2023

TCCS - Ngày 16-9-2021, Liên minh châu Âu (EU) chính thức công bố Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Đây được xem là bước tiến lớn của EU nhằm tăng cường sự can dự vào khu vực có vị trí địa - chiến lược quan trọng của thế giới. Vấn đề được dư luận quốc tế quan tâm hiện nay là cách tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU như thế nào trong tương quan so sánh với Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) của Mỹ và Tầm nhìn về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AOIP) của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Cách tiếp cận của các nước thành viên EU

Do khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” còn tương đối mới đối với EU nói chung và các quốc gia thành viên EU nói riêng, nên quan điểm tiếp cận về địa lý đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được chia thành ba nhóm chính(1): 1- Đối với Pháp, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được tiếp cận rộng nhất, từ bờ biển phía đông châu Phi đến bờ biển phía tây châu Mỹ. Đây cũng là quan điểm của 12 quốc gia thành viên khác của EU(2); 2- Đối với Hà Lan, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được tiếp cận trải dài từ Pa-ki-xtan đến các đảo thuộc Thái Bình Dương(3); 3- Có năm nước EU(4) cho rằng, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được tính từ bờ biển phía đông châu Phi và các đảo thuộc Thái Bình Dương. Ngoài ra, một số quốc gia thành viên EU có quan điểm riêng, như Đức cho rằng, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là toàn bộ khu vực được xác định bởi Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương không phải là vấn đề về địa lý hay khu vực địa lý được xác định rõ ràng, mà chủ yếu là các dự báo chiến lược cạnh tranh.

Tháng 5-2018, Pháp là quốc gia thành viên EU đầu tiên phát triển chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, khi Tổng thống Pháp Em-ma-nu-en Mác-crông phát biểu tại căn cứ hàng hải Garden Island (Ô-xtrây-li-a) về một trục Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương - Pháp - Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a mới. Tiếp đó, Pháp chính thức công bố chiến lược về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương lần lượt vào các năm 2018, năm 2019 và năm 2021. Xuất phát điểm của Pháp hoàn toàn khác so với các nước thành viên khác của EU, khi Pháp vẫn còn lãnh thổ phụ thuộc trong khu vực(5). Sự hiện diện của Pháp tại khu vực này cả về mặt dân sự và quân sự cũng khá lâu đời và mạnh mẽ. Đặc biệt, sau khi Anh rời EU (Brexit), Pháp là quốc gia thành viên EU duy nhất có sự hiện diện về quân sự tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Chính vì vậy, cách tiếp cận của Pháp đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương khá toàn diện với mục tiêu tăng cường sự hiện diện và hoạt động trong khu vực trên các lĩnh vực chính trị, chiến lược, kinh tế, môi trường,... ở cả phương diện song phương và đa phương. Theo đó, Pháp nhấn mạnh mong muốn tăng cường vị thế của EU trong khu vực, trong đó, Pháp có thể đóng vai trò như một cường quốc trung gian. Hiện nay, Pháp là quốc gia duy nhất đã thiết lập vị trí đại sứ mới ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương(6).

Sau Pháp, các nước Đức và Hà Lan lần lượt công bố chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào tháng 9-2020 và tháng 11-2020, dưới hình thức “hướng dẫn/định hướng chính sách”. Do xuất phát điểm khác với Pháp, Đức và Hà Lan chủ yếu tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương dựa trên lợi ích của hai nước với tư cách là các quốc gia thương mại lớn, phụ thuộc vào các tuyến đường biển rộng mở và ủng hộ duy trì một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.

Trên cơ sở tiếp cận này, Đức đưa ra tám lợi ích liên quan đến khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, bao gồm hòa bình và an ninh, đa dạng hóa và thúc đẩy quan hệ với khu vực, không đơn cực hay lưỡng cực, thương mại tự do, các tuyến đường vận chuyển mở, chuyển đổi kỹ thuật số và kết nối, môi trường và phát triển bền vững, tiếp cận thông tin chính xác. Trong khi đó, mục tiêu của Đức vẫn tập trung vào thúc đẩy vị trí và vai trò của EU trong khu vực, trong đó Đức tiếp tục là quốc gia “đầu tàu”.

Khác với Đức và Pháp được coi là hai trụ cột của EU, Hà Lan chỉ là “quốc gia tầm trung đặc biệt” trong EU. Tuy nhiên, trong bối cảnh hậu Brexit, khi một trong những cường quốc quân sự của EU là Anh rời đi, Hà Lan cần phát huy vai trò “cường quốc biển” lâu đời trong việc thúc đẩy ảnh hưởng của mình cũng như của EU tại khu vực. Yếu tố mang tính lịch sử này cho thấy rõ mục tiêu của Hà Lan trong việc chủ động tham gia khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, không chỉ nhằm duy trì quan hệ và ảnh hưởng truyền thống với một số quốc gia trong khu vực, mà trên hết, Hà Lan ý thức rõ vai trò của một quốc gia hàng hải cũng như lợi ích quốc gia trong việc hợp tác đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Các mục tiêu ưu tiên của Hà Lan trong chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương cũng khá tương đồng với mục tiêu của Đức khi tập trung vào các lĩnh vực, như an ninh và ổn định, kinh tế và thương mại bền vững, chủ nghĩa đa phương hiệu quả và trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, kết nối bền vững, thách thức toàn cầu về khí hậu và phát triển bền vững. Với vị thế là trung tâm của luật pháp quốc tế, Hà Lan mong muốn có thể thúc đẩy luật pháp liên quan đến các hoạt động hàng hải trong khu vực, đồng thời gia tăng hơn nữa sự hiện diện của EU trên phương diện an ninh phi truyền thống tại khu vực.

Có thể thấy, Pháp, Đức và Hà Lan đã đặt nền móng cho cách tiếp cận của EU đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Mặc dù có một số khác biệt trong cách tiếp cận, nhưng cả Pháp, Đức và Hà Lan đều thống nhất tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đối với châu Âu; cùng chia sẻ những lợi ích và mục tiêu cơ bản. Rõ ràng, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương không được phân định rõ về mặt địa lý mà được xác định bởi các tác nhân khác nhau. Ở đây, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được coi là trung tâm chính trị và kinh tế mới của thế giới, nơi mà cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, đang diễn ra ngày càng gay gắt và tương lai của trật tự quốc tế có thể được định hình.

Tiếp theo Pháp, Đức và Hà Lan, Bồ Đào Nha, Ba Lan, I-ta-li-a, Thụy Điển tiếp tục là các quốc gia thành viên ủng hộ chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU. Chính vì vậy, với mong muốn tạo dựng chỗ đứng vững chắc cho các nước thành viên tại khu vực, ngày 15-9-2021, sau đề xuất ban đầu về một chiến lược chung được ngoại trưởng 27 nước thành viên EU đưa ra vào tháng 4-2021, EU chính thức công bố chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Đây được xem là một thành tựu lớn trong chính sách đối ngoại chung của EU khi mới gần một năm trước đó, thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” thậm chí còn không được sử dụng trong các văn bản chính thức ở EU hoặc các nước thành viên EU (ngoại trừ Pháp). Bốn lĩnh vực quan trọng đã được EU đề cập đến trong bối cảnh này là thương mại, sự kết nối, an ninh hàng hải và các vấn đề toàn cầu. Trong đó, EU đóng vai trò quyết định về thương mại, vì các hiệp định thương mại tự do (FTA) đều phải do EU trực tiếp đàm phán.

Các nhà lãnh đạo ASEAN - EU tại Lễ khai mạc Hội nghị cấp cao kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN - EU, ngày 14-12-2022_Ảnh: TTXVN

Cách tiếp cận của EU trong so sánh với Mỹ và ASEAN

Đối với Mỹ, dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được coi là Hành lang kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEC) bên cạnh chiến lược “xoay trục sang châu Á” về chính trị và quân sự. Tuy nhiên, dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được nhìn nhận như một “đấu trường trung tâm” cho chính sách kinh tế và đối ngoại để đối phó với Trung Quốc. Mặc dù không được xác định chính xác ranh giới địa lý, song khu vực này trải dài trên toàn bộ Ấn Độ Dương, từ các lãnh thổ hải ngoại, như Guam, American Samoa ở phía tây Thái Bình Dương đến các tiểu bang, như Ha-oai, Ca-li-phoóc-ni-a của Mỹ, bao gồm tất cả quốc gia giáp hai đại dương này. Theo cách tiếp cận của Mỹ, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là một không gian địa - chính trị và địa - kinh tế trung tâm để bảo vệ các lợi ích toàn cầu của Mỹ. Trong “tầm nhìn” của Mỹ về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP), “tự do” có nghĩa là quyền tự do khẳng định chủ quyền của tất cả quốc gia mà không bị giới hạn bởi các quốc gia khác (thậm chí không phải bởi các tổ chức siêu quốc gia như EU); “rộng mở” nhằm chỉ việc tiếp cận các vùng biển quốc tế, không gian hàng không và kỹ thuật số, thị trường và thương mại công bằng, có đi có lại, cũng như cho phép Mỹ đầu tư vào kết cấu hạ tầng trên toàn khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ngay cả khi Tổng thống Mỹ Giô Bai-đơn nhậm chức, trọng tâm của FOIP cũng đã được đưa ra trong Chiến lược An ninh quốc gia của Mỹ từ năm 2017, đó là tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ(7).

Đối với ASEAN, tính đến trước tháng 6-2019, thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” vẫn chưa được sử dụng trong các tuyên bố và tài liệu chính thức của ASEAN. Do đó theo giới chuyên gia, so với các chủ thể khác, ASEAN đã phản ứng tương đối muộn khi đưa ra AOIP vào năm 2019, mặc dù các ý tưởng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã xuất hiện trong ASEAN từ nhiều năm trước đó. Đơn cử như, năm 2013, Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a đã trình bày những ý tưởng cụ thể cho một “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”; tuy nhiên, ở thời điểm đó, sáng kiến này chưa nhận được sự ủng hộ từ bên ngoài In-đô-nê-xi-a(8).

AOIP chính là sự phản hồi của ASEAN đối với FOIP của Mỹ. Dù tiếp nhận cùng một tên gọi, song giữa khái niệm Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của ASEAN với FOIP có sự phân biệt định tính. ASEAN định nghĩa “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” không hẳn là một không gian được phân định rõ ràng về mặt lãnh thổ, mà là một khu vực phụ thuộc lẫn nhau, liên kết chặt chẽ, không xác định rõ ràng biên giới với ASEAN và ASEAN đóng vai trò trung tâm. Chính vì vậy, AOIP chủ yếu tập trung vào các mục tiêu và chuẩn mực chung hơn là những đề xuất cụ thể, hướng tới thực tiễn để giải quyết các vấn đề. Theo AOIP, lợi ích chính của ASEAN là xác định cấu trúc kinh tế và an ninh bảo đảm mang lại hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng cho người dân Đông Nam Á. Trên cơ sở tiếp cận đó, ASEAN nhấn mạnh các yếu tố cần thiết, như “đối thoại và hợp tác thay vì ganh đua” và “phát triển và thịnh vượng cho tất cả mọi người dân”. Do vậy, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” như một khái niệm kết nối được mở rộng cho tất cả quốc gia trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, nên AOIP thậm chí không đề cập đến tên của một quốc gia cụ thể nào(9).

Về cơ bản, AOIP lặp lại và nhấn mạnh các nguyên tắc cốt lõi lâu đời của nhóm 10 quốc gia Đông Nam Á và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN, đó là làm sâu sắc hơn các quá trình hội nhập khu vực, duy trì trật tự khu vực dựa trên luật lệ, giải quyết xung đột bằng các biện pháp hòa bình, chủ nghĩa đa phương và tôn trọng luật pháp quốc tế. Hơn nữa, do nhấn mạnh vào “phương thức ASEAN” nên AOIP cung cấp một không gian khái niệm cho tất cả các bên, với điều kiện các bên sẵn sàng chấp nhận cấu trúc an ninh khu vực đa phương với ASEAN là trung tâm.

Như vậy, cách tiếp cận của EU có nhiều điểm tương đồng với ASEAN. Trên thực tế, việc ASEAN đưa ra lập trường riêng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương góp phần giúp các nước thành viên EU, như Đức, Hà Lan, dễ dàng vượt qua sự dè dặt trong sử dụng thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”(10). Cách tiếp cận của EU đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tương đối toàn diện, trong khi FOIP của Mỹ tập trung hướng tới kiềm chế sự “trỗi dậy” của Trung Quốc. Điều đáng chú ý, Mỹ hầu như không được đề cập trong tuyên bố của EU do trọng tâm về các đối tác trong không gian Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU rõ ràng được xác định hẹp hơn, chủ yếu tập trung vào Hàn Quốc, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Ấn Độ và ASEAN.

EU tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương theo ba nhóm chính sách: kinh tế, ngoại giao và quốc phòng - an ninh. Về kinh tế, do sự phụ thuộc kinh tế của EU với khu vực này. Hơn 1/3 tổng số hàng hóa xuất khẩu của châu Âu đến khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương phần lớn quá cảnh qua các tuyến đường biển của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. EU nỗ lực thúc đẩy lợi ích kinh tế thông qua ký kết các thỏa thuận thương mại và đầu tư mới, đa dạng hóa hơn nữa chuỗi cung ứng. Dựa trên chiến lược “kết nối châu Âu và châu Á” năm 2018, EU kết nối và thúc đẩy một cách tiếp cận thay thế Sáng kiến “Vành đai, con đường” (BRI) của Trung Quốc, tăng cường tính minh bạch, tính bền vững và quyền sở hữu địa phương. Về ngoại giao, EU hướng tới một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ổn định dựa trên dân chủ, pháp quyền, nhân quyền và luật pháp quốc tế. Không chỉ tiếp cận ngoại giao song phương, EU thúc đẩy “chủ nghĩa đa phương dựa trên quy tắc hiệu quả” để giải quyết một loạt thách thức từ biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, cho đến quản trị đại dương, giảm thiểu rủi ro thiên tai và các chính sách quản lý cũng như phòng, chống đại dịch COVID-19. Về quốc phòng - an ninh, những thách thức an ninh phi truyền thống đang gia tăng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là những vấn đề mà EU quan tâm tiếp cận, nhất là an ninh hàng hải, ưu tiên bảo đảm các tuyến đường liên lạc trên biển “tự do và rộng mở”, “tuân thủ đầy đủ luật pháp quốc tế”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel và Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula Von der Leyen tham dự Lễ khai mạc Hội nghị cấp cao kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN - EU tại Brussels, Vương quốc Bỉ, ngày 14-12-2022_Ảnh: TTXVN

Một số vấn đề đặt ra trong chính sách của EU đối với các nước ASEAN

Thứ nhất, trên thực tế, không phải đến năm 2021, EU mới tăng cường can dự vào khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thời gian qua, các quốc gia thành viên EU đã phát triển hơn 40 quan hệ đối tác chiến lược trong khu vực và đẩy mạnh theo đuổi chính sách thương mại khu vực, chủ động thông qua việc ký kết các FTA với Nhật Bản, Xin-ga-po, Hàn Quốc và Việt Nam. Ngoài lĩnh vực kinh tế, EU đã xây dựng quan hệ đối tác nhiều mặt với ASEAN. Tháng 12-2020, EU và ASEAN đã nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược. Mặc dù đã có những bước tiến từ cả phía các nước thành viên cũng như của EU, song sự hiện diện của EU tại khu vực vẫn bị đánh giá là “cách tiếp cận chắp vá, hạn chế ảnh hưởng tổng thể của EU”(11). Nguyên nhân xuất phát từ những vấn đề sau: Một là, EU vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi đặc trưng của “vòng tròn đồng tâm” trong chính sách đối ngoại của mình. Hai là, bản chất của chính sách đối ngoại chung của EU vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn, cũng như chưa thể so sánh được với chính sách đối ngoại của một quốc gia thông thường. Tuy nhiên, việc các quốc gia thành viên EU đề xuất một chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương chung đã cho thấy rõ ý định của EU trong việc thay đổi tình hình này.

Thứ hai, việc EU đẩy mạnh chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương cũng khiến EU rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” khi phải đối mặt với sự cạnh tranh của hai “đối thủ” trong khu vực. Với Trung Quốc, EU vừa có những gắn bó chặt chẽ, nhất là về kinh tế, vừa có bất đồng sâu sắc về các vấn đề, như nhân quyền và dân quyền. Với Mỹ, hai bên đều có những dấu hiệu của việc “bằng mặt, nhưng không bằng lòng” liên quan đến nhiều vấn đề đối ngoại, chính sách nhân quyền và kinh tế, cùng sự đối kháng ngày càng rõ từ phía Mỹ. Một thách thức nữa đối với bất kỳ vị trí nào tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vẫn là phản ứng của Trung Quốc. Mặc dù trong chính sách đối với Trung Quốc của EU, Trung Quốc được coi là đối tác, đối thủ cạnh tranh và đối thủ mang tính hệ thống; hay trong chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU, Trung Quốc được coi là một đối tác quan trọng của EU trong các vấn đề, như biến đổi khí hậu, không phổ biến vũ khí hạt nhân... song vẫn rất khó để có thể giải tỏa hết những “quan ngại” của EU về Trung Quốc.

Thứ ba, một thách thức lớn đối với khả năng định vị của EU trong tương lai ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, là việc phân bổ nguồn nhân lực và tài chính cần thiết để thực hiện các kỳ vọng đã được tạo ra giữa các đối tác trong khu vực. EU đã đầu tư 8 tỷ ơ-rô cho các dự án kết nối ở khu vực châu Á trong giai đoạn 2014 - 2020. Các nguồn lực này vẫn thấp hơn nhiều so với quy mô của BRI hay so với ước tính 1,3 nghìn tỷ ơ-rô cần thiết mỗi năm để đáp ứng nhu cầu về kết cấu hạ tầng trên toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương(12). Điều tương tự cũng có thể liên quan đến an ninh hàng hải khi quy mô của lực lượng hải quân châu Âu về cơ bản đã giảm đáng kể trong những thập niên qua và người dân châu Âu vẫn phải đối mặt với các thách thức an ninh ở khu vực lân cận. Do đó, EU cần phải đẩy mạnh phối hợp với nhau, thậm chí là với Mỹ và Anh, để bảo đảm sự hiện diện hoạt động hiệu quả ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Thứ tư, khi tham gia khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, EU có thể tập trung vào các khu vực khác, đồng thời cũng là lợi thế của các nước thành viên EU, bao gồm các vấn đề an ninh phi truyền thống, quản trị hiệu quả và chính sách khí hậu. Với cách tiếp cận hiện nay, ngoài khả năng có thể đóng vai trò hàng đầu trong các vấn đề thương mại, EU thậm chí có thể đảm nhận vai trò của một bên trung lập và giúp ổn định sự cạnh tranh giữa cường quốc đang gia tăng trong khu vực bằng cách thúc đẩy những sáng kiến an ninh hợp tác và trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.

Thứ năm, tính đến nay, chưa có một tài liệu chính thức nào của Việt Nam sử dụng thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”. Tuy nhiên, trong giới nghiên cứu và học giả đã bàn khá nhiều đến vấn đề này. Chính vì vậy, Việt Nam cần có thời gian để có thể xem xét việc thực thi chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU trên thực tế. Song, dựa trên bối cảnh hiện tại, có thể thấy chiến lược này mang lại nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển của các mối quan hệ hiện có giữa Việt Nam và EU.

Nhìn chung, cách tiếp cận mới của EU đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là một bước tiến đầu tiên trong sự gắn kết và phát triển của EU nói riêng, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói chung. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã được tất cả quốc gia thành viên nhất trí thông qua, cho thấy những mong muốn của EU trong việc đóng một vai trò tích cực hơn trong khu vực này, thông qua các chính sách khác nhau và phối hợp hiệu quả hơn với các đối tác cùng chí hướng. Trong cách tiếp cận chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương chung của EU, Việt Nam với vai trò là quốc gia thành viên của ASEAN hay quốc gia trong khu vực đều có một vị thế nhất định. Việc xác định đúng vị thế, đồng thời hiểu rõ bản chất của sự điều chỉnh này sẽ giúp Việt Nam có thể tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu tối đa nguy cơ. Vì vậy, thúc đẩy quan hệ với EU nói chung và các nước thành viên EU nói riêng tiếp tục là một trong những định hướng chiến lược đối ngoại quan trọng của Việt Nam trong thời gian tới./.

-------------------------

(1) Frédéric Grare - Manisha Reuter: “Moving closer: European views of the Indo-Pacific(Tạm dịch: Tiến lại gần hơn: Quan điểm của châu Âu về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương), European Council on Foreign Relations (ECFR), ngày 13-9-2021, https://ecfr.eu/special/moving-closer-european-views-of-the-indo-pacific/analysis-by-country
(2) Áo, Bỉ, Bun-ga-ri, Cộng hòa Síp, E-xtô-ni-a, Séc, Pháp, Hy Lạp, Lít-va, Man-ta, Ru-ma-ni, Tây Ban Nha, Thụy Điển
(3) Ai Len, Lát-vi-a và Xlô-va-ki-a
(4) Đan Mạch, Phần Lan, I-ta-li-a, Lúc-xăm-bua, Bồ Đào Nha
(5) Pháp là quốc gia duy nhất vẫn còn lãnh thổ trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ bờ biển phía đông của châu Phi (Mayotte, La Réunion…); các lãnh thổ Nam, Nam Cực của Pháp; Nam Thái Bình Dương (Va-nua-tu, Niu Ca-lê-đô-ni-a, Oa-lít & Phu-tu-na và Pô-ly-nê-si-a thuộc Pháp); đến quần đảo Clipperton ngoài khơi Trung Mỹ
(6) Pháp bổ nhiệm đại sứ Crít-tốp-phơ Pi-nốt (Christophe Penot) tại Ô-xtrây-li-a là đại diện của Pháp tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào tháng 10-2020
(7) Felix Heiduk - Gudrun Wacker: “From Asia - Pacific to Indo - Pacific: Significance, Implementation and Challenges” (Tạm dịch: Từ châu Á - Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Ý nghĩa, thực hiện và thách thức), Stiftung Wissenschaft und Politik (SWP), ngày 1-7-2020, https://www.swp-berlin.org/10.18449/2020RP09/#en-d24663e579
(8) Xem: “An Indonesian Perspective on the Indo-Pacific. Keynote Address by His Excellency Dr. R. M. Marty M. Nata­legawa, Minister for Foreign Affairs, Republic of Indonesia” (Tạm dịch: Quan điểm của In-đô-nê-xi-a về khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Bài phát biểu quan trọng của Tiến sĩ R. M. Na-ta-li-ga-oa, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a), Center for Strategic and International Studies (CSIS), ngày 16-5-2013, http://csis.org/files/ attachments/130516_MartyNatalegawa_Speech.pdf
(9) Amitav Acharya: “Why ASEAN’s Indo - Pacific Outlook Matters” (Tạm dịch: Tại sao Tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của ASEAN lại quan trọng), East Asia Forum, ngày 11-8-2019, https://www.eastasiaforum.org/2019/08/11/why-aseans-indo-pacific-outlook-matters/print/
(10) Pierre Morcos: “The European Union Is Shaping Its Strategy for the Indo - Pacific” (Tạm dịch: Liên minh châu Âu đang định hình chiến lược cho Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương), Center for Strategic and International Studies (CSIS), ngày 19-4-2021, https://www.csis.org/analysis/european-union-shaping-its-strategy-indo-pacific
(11) Pierre Morcos: “The European Union Is Shaping Its Strategy for the Indo - Pacific”, Tlđd
(12) Pierre Morcos: “The European Union Is Shaping Its Strategy for the Indo - Pacific”, Tlđd