Nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở Việt Nam hiện nay (Kỳ 1)
TCCS - Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ thứ mười được bổ sung trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, hợp thành hệ thống mười mối quan hệ lớn, thể hiện tính quy luật của đổi mới, hội nhập và phát triển ở nước ta. Yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở nước ta trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu và các phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội XI của Đảng chỉ rõ, “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(1).
Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Đồng thời, bổ sung mối quan hệ lớn thứ chín là mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Sau đó, mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” phát triển thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”(3).
Để thực hiện các định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn...; và đặc biệt, mối quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện”(4).
Những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa dân chủ với pháp chế và kỷ cương xã hội
Như một tất yếu, các phạm trù dân chủ, thực hành dân chủ, pháp chế, kỷ cương xã hội không thể tồn tại, phát huy được giá trị, vai trò của mình nếu tách rời hay đối lập với nhau. Dân chủ và pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội cần một cơ chế vận hành tổng thể để bảo đảm thực hiện một cách bền vững ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Thứ nhất, dân chủ và pháp luật, thực hành dân chủ và pháp chế, kỷ cương xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động, phụ thuộc, hỗ trợ lẫn nhau.
Dân chủ là mục tiêu, điều kiện và động lực hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Pháp luật là đại lượng, phương tiện của dân chủ. Pháp luật không chỉ làm nhiệm vụ ghi nhận, xác định về mặt pháp lý của dân chủ mà còn cần “thực hành dân chủ” ngay trong đời sống pháp luật - từ xây dựng pháp luật đến thực thi pháp luật, từ các quy định pháp luật đến ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật. Đây là cách tốt nhất để nâng cao vai trò và giá trị xã hội của pháp luật trong đời sống hiện đại.
Pháp luật là đại lượng và phương tiện của dân chủ, nhưng pháp luật cũng có tính độc lập tương đối đối với dân chủ. Pháp luật không sinh ra dân chủ, bởi dân chủ là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động, là kết quả của quá trình nhận thức, là tất yếu của tiến bộ xã hội. Ngoài sự quyết định và chi phối của các nhân tố kinh tế và phi kinh tế, sự phát triển của pháp luật nhìn chung phụ thuộc vào trình độ nền dân chủ hiện thời, hoặc chịu ảnh hưởng bởi các nền dân chủ khác từ bên ngoài. Đến lượt mình, dân chủ phụ thuộc vào các điều kiện khách quan của kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Pháp luật với ưu thế và nhược thế riêng có của mình lại tác động trở lại đối với dân chủ. Pháp luật có thể thúc đẩy, hỗ trợ cho dân chủ phát triển và ngược lại, có thể kìm hãm dân chủ dưới nhiều hình thức. Một quy định pháp luật không rõ ràng, minh bạch hay không đúng đắn sẽ là cơ hội cho sự vi phạm, lợi dụng dân chủ. Một quyết định hành chính hay tư pháp sai trái cũng ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ. Đó là chưa kể đến việc ghi nhận không rõ ràng của pháp luật về cơ chế thực hiện dân chủ, các hình thức của dân chủ là trực tiếp hay thông qua đại diện.
Cùng với sự phát triển của xã hội, dân chủ và pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Con người không chỉ có khát vọng dân chủ mà còn cần cảm nhận thực tế về dân chủ, về việc thực hành dân chủ và thực thi pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Nhà nước cần giáo dục cho nhân dân “biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(5) trong khuôn khổ pháp luật.
Thực chất của công cuộc đổi mới ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là phương thức, nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý của Nhà nước và xã hội, trong đó, mọi thành viên được tôn trọng, bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề của đất nước. Đảng ta đã khẳng định, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. “Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm... quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(6). Dân chủ không thể thực hiện được nếu thiếu pháp luật. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật.
Những quan niệm pháp lý mới, những điều luật mới của pháp luật đều là kết quả trực tiếp hay gián tiếp của dân chủ. Trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân dân, chất lượng và hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngày càng được nâng cao. Dân chủ cũng được thể hiện ngay trong hoạt động nghiên cứu pháp luật. Nhiều quan niệm chính trị - pháp lý đã và đang được nhận thức lại một cách khách quan hơn trên nguyên tắc kế thừa truyền thống và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nghiên cứu về dân chủ và thực hiện dân chủ diễn ra song song với việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật. Từ khát vọng về dân chủ, từ sự cảm nhận dân chủ ở tầm vĩ mô trong các chủ trương, chính sách đến cảm nhận thực tế trong thực hành dân chủ ở ngay chính các cộng đồng dân cư mà trong ý thức của mỗi cá nhân, dân chủ đã có thêm một bước phát triển sâu rộng, gắn bó với đời sống thường nhật của con người.
Theo thời gian, pháp luật cũng vận động, phát triển không ngừng. Pháp luật từ chỗ chỉ được nhận thức và vận dụng như công cụ quản lý thuần túy của Nhà nước đến chỗ được nhận thức và vận dụng như công cụ - phương tiện của mỗi một cá nhân. Pháp luật không còn xa lạ với mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại, bởi họ tìm thấy ở các quy định của pháp luật sự bảo đảm an toàn pháp lý trong mọi hoạt động của mình và dân chủ đã trở thành hiện thực khi họ được quyền biết, quyền bàn bạc, kiểm tra, giám sát, thực hiện và thụ hưởng.
Dân chủ hóa trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội cần phải được xác nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Nếu không có những quy định pháp luật về quyền tự do sáng tác, sáng tạo của cá nhân và các quy định pháp luật về bảo vệ quyền tự do đó thì dân chủ sẽ bị vi phạm hoặc bị lợi dụng. Nói đến dân chủ là nói đến vấn đề tự do và trách nhiệm, tự do và tất yếu. Để thực sự là đại lượng của tự do, dân chủ, pháp luật phải phản ánh được những quyền lợi cơ bản và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Dân chủ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, bao gồm cả quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm. Với nội hàm như vậy, dân chủ tất yếu phải được thể hiện dưới dạng các quy định pháp luật. Nói đến sự vi phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ thì cũng nói thêm về sự lợi dụng những sơ hở, những khoảng trống trong pháp luật, lợi dụng quyền ban hành văn bản pháp luật hay văn bản áp dụng pháp luật để vi phạm pháp luật, và đó cũng có nghĩa là vi phạm dân chủ.
Pháp luật bảo đảm cho dân chủ vận động trong khuôn khổ, trật tự, hành lang hợp lý. Trong khi hoàn thiện quy định pháp luật về dân chủ thì cũng phải quan tâm đến việc thực thi pháp luật, tức là làm cho các quy định về dân chủ trở thành hiện thực. Hoạt động áp dụng pháp luật, do vậy, có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện dân chủ. Nhìn từ góc độ cơ chế điều chỉnh pháp luật, dân chủ được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cơ chế đó, từ xây dựng, ban hành pháp luật đến thực thi pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trong lĩnh vực ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật.
Dân chủ là một trong những đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, một trong những yếu tố cơ bản để “nhận diện” nhà nước pháp quyền và trình độ phát triển của xã hội, bởi lẽ, xét một cách toàn diện, nhà nước pháp quyền chính là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao. Cuộc đấu tranh bảo vệ những thành quả của dân chủ cũng đồng thời là cuộc đấu tranh vì sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện dân chủ thông qua các quy định pháp luật. Nhìn chung, thuở ban đầu, dân chủ chủ yếu thể hiện ở lĩnh vực chính trị, về sau càng lan rộng đến các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa - xã hội, tư tưởng, tinh thần. Như nhiều hiện tượng chính trị - xã hội khác, dân chủ cũng có đời sống vô cùng phức tạp.
Với vai trò là đại lượng và phương tiện của dân chủ, pháp luật không thể được quy định chung chung mà phải được cụ thể hóa. Pháp luật phải quy định rõ ràng, minh bạch vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động của cá nhân và xã hội. Pháp luật cần có quy định hợp lý về tự do và trách nhiệm, về hành vi bị cấm và được phép làm để từng bước thực hiện các nguyên tắc của pháp luật trong nhà nước pháp quyền “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm” và “chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép”. Thực trạng lâu nay về cái gọi là “điều cấm” theo pháp luật còn nhiều bất cập, thậm chí bỏ trống; từ đó, tạo ra sự đa dạng trong nhận thức và hành động thực tiễn.
Việc đề ra nguyên tắc “quản lý xã hội phải bằng pháp luật và đạo đức”, mọi hành vi của cá nhân, tổ chức phải không trái pháp luật và đạo đức xã hội là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Nhìn rộng ra, nguyên tắc đó cũng có ở trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau. Điều đó có nghĩa là hành lang pháp lý và hành lang đạo đức xã hội sẽ là giới hạn bảo đảm cho mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức có kỷ cương, có tự do, dân chủ và không vi phạm dân chủ.
Dân chủ không chỉ cần được thể hiện trong xây dựng, ban hành pháp luật, trong các quy định pháp luật. Sẽ không có dân chủ hoặc dân chủ bị vi phạm nếu như các quy định pháp luật về dân chủ không được thực thi hoặc thực thi sai lệch. Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật, thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội mà trước hết là của các cơ quan nhà nước là một phương tiện bảo đảm dân chủ và cũng là thước đo trình độ thực thi dân chủ, đồng thời là tiêu chí để nhận diện dân chủ ở nước ta hiện nay. Chúng ta đã có Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhưng việc thực hiện quy chế đó như thế nào, lại một lần nữa đòi hỏi phải được thực hiện một cách dân chủ và thực sự dân chủ.
Dân chủ phải được thể hiện trong ý thức pháp luật cũng như trong văn hóa pháp luật; điều này xuất phát từ dân chủ hóa trong lĩnh vực tư tưởng, tinh thần; được thể hiện cụ thể trong cung cấp thông tin pháp lý, giáo dục pháp luật, điều tra dư luận xã hội về nhu cầu và nhận thức pháp luật của các loại đối tượng dân cư,... Lâu nay, khi nói, khi nghĩ về “ý thức pháp luật”, chúng ta thường dừng lại ở quan niệm hẹp, với nghĩa là chỉ để làm sao cho người dân chấp hành pháp luật tốt, chưa quan tâm đến các biểu hiện phong phú, phức tạp của ý thức pháp luật, của văn hóa pháp luật. Cả từ phía người dân, nhà khoa học, người lãnh đạo, quản lý, xây dựng pháp luật, nếu không thực hiện dân chủ thì chưa thể nói đến việc hoàn thiện pháp luật, tuân thủ pháp luật và thực hành, phát huy dân chủ.
Tự do tức là nhận thức được sự tất yếu, là tuân theo những quy tắc đã đề ra. Dân chủ là quyền tham gia của người dân vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Do vậy, pháp luật muốn làm tốt được vai trò to lớn của mình - là đại lượng và phương tiện của dân chủ, thì pháp luật phải có chất lượng, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Giới hạn của dân chủ và tự do phải được xác định bằng quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của xã hội, và theo đó, “mỗi một người dân đều phải hiểu rằng anh hãy hành động, xử sự đối với người khác và tập thể như anh muốn người ta hành động và xử sự với anh”(7).
Sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, dân chủ hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống pháp luật. Gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, khuyến khích lợi ích vật chất, bảo vệ sự hưởng thụ chính đáng, phong cách làm việc có kỷ cương, tuân theo pháp luật của công dân... đang là những phẩm chất, giá trị đạo đức, giá trị và nguyên tắc pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý của nhà nước mà còn là công cụ của mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại để hướng dẫn hành vi của họ, bảo đảm an toàn cho họ trước mọi sự vi phạm của các cá nhân, tổ chức.
Dân chủ và pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của nhân loại. Trong những không gian đa dạng, dân chủ và pháp luật từ khi xuất hiện cho đến nay đã trải qua những bước thăng trầm theo dòng thời gian lịch sử. Dân chủ không chỉ gắn liền với chế độ tư sản, mà nó có quá trình phát triển từ thấp đến cao, qua từng nấc thang giá trị, là sản phẩm của lịch sử trong tiến trình phát triển xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của nhân dân lao động, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; được hình thành, phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn hóa chân thực của nhân loại. Dân chủ hóa và đẩy mạnh thực hành dân chủ là xu hướng chung của nhân loại. Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất, trí tuệ, tinh thần của con người ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ hóa và thực hành dân chủ càng được mở rộng và phát huy mạnh mẽ.
Xuất hiện như một tất yếu lịch sử cùng với nhà nước, pháp luật ngay từ cội nguồn đã mang trong mình bản chất với hai phương diện thống nhất biện chứng là giai cấp và xã hội. Dân chủ là thành quả đấu tranh cách mạng của quần chúng lao động, thể hiện khát vọng tự do, bình đẳng của con người. Còn pháp luật sinh ra từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và từ nhu cầu của nhà nước trong quản lý xã hội.
Dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với pháp luật, thực hiện pháp luật, phát huy vai trò, giá trị của pháp luật trong cuộc sống. Dân chủ và thực hành dân chủ thúc đẩy việc tăng cường pháp chế và sự tăng cường pháp chế là điều kiện căn bản bảo đảm thực hành dân chủ và bảo đảm kỷ cương xã hội. Dân chủ rèn luyện cho con người những năng lực và phẩm chất của công dân mà xã hội dân chủ đòi hỏi. Đó là mỗi công dân phải nắm vững và làm quen với các yêu cầu của văn hóa dân chủ, sống và làm việc theo phong cách dân chủ, làm việc và hoạt động trong môi trường dân chủ, đấu tranh để bảo vệ và phát triển dân chủ.
Pháp luật cũng như dân chủ vận động, phát triển không ngừng cùng với các hiện tượng xã hội khác. Tăng cường pháp chế và quản lý xã hội bằng pháp luật là nguyên tắc hiến định ở nước ta. Pháp chế là một trong những vấn đề phức tạp về lý luận, nhận thức và thực tiễn. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, việc tăng cường pháp chế có tầm quan trọng đặc biệt. Tính cấp thiết thì đã rõ, nhưng nội dung của việc tăng cường pháp chế là như thế nào, bao gồm những biện pháp nào? Tính phù hợp, khả thi, hiệu quả của các biện pháp tăng cường pháp chế trong điều kiện chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ văn hóa pháp luật, điều kiện về kinh tế, xã hội hiện tại ở nước ta hiện nay,... là những vấn đề cần được quan tâm, tính toán và xử lý trong việc tăng cường pháp chế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Tăng cường pháp chế phải hướng vào việc bảo đảm thực hiện những yêu cầu cơ bản: tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật, sự bình đẳng trước pháp luật của tất cả các chủ thể pháp luật; bảo đảm và bảo vệ các quyền, tự do, dân chủ của công dân; áp dụng đúng đắn, có hiệu quả các quy định pháp luật; đấu tranh không khoan nhượng với mọi hành vi vi phạm pháp luật; không cho phép sự lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Đôi khi các yêu cầu này lại được phân loại một cách cụ thể hơn, nhưng tựu trung lại cũng thuộc phạm vi những yêu cầu cơ bản nêu trên. Và, chỉ khi các yêu cầu, nguyên tắc nêu trên được thực hiện thì mới có một chế độ pháp chế chân chính, thực thụ.
Pháp chế không chỉ là một hành vi cụ thể mà là một quá trình sống động, một trạng thái tuân thủ pháp luật được áp dụng chung cho tất cả các cá nhân, tổ chức. Pháp chế là phương pháp quản lý xã hội của nhà nước, được thể hiện ở một hệ thống pháp luật phản ánh ý chí, lợi ích và xu thế phát triển xã hội và chế độ thực thi pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, có thể thấy, giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội có mối quan hệ rất mật thiết, những liên hệ xã hội chặt chẽ, không thể tách rời, hợp thành hệ thống - chỉnh thể dân chủ, trong đó, các yếu tố tác động qua lại với nhau, quy định và chế ước lẫn nhau cần được nhận biết từ tư duy lý luận, cần được minh chứng từ thực tiễn đời sống xã hội trong tiến trình vận động của dân chủ hóa để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hành dân chủ, trước hết là thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn trong Di chúc, là nỗ lực đầu tiên với quyết tâm chính trị của Đảng lãnh đạo và cầm quyền để xây dựng một nền dân chủ đích thực, phát triển và hoàn thiện chế độ dân chủ, xây dựng các thiết chế, thể chế dân chủ, nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ trong Đảng, thúc đẩy thực hiện dân chủ trong Nhà nước và hệ thống chính trị, trong toàn xã hội và cùng tập trung hướng vào thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội tạo ra động lực thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bởi dân chủ cũng như nhà nước pháp quyền là những đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là mục tiêu của đổi mới, nhất là đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta.
Thứ hai, những khái quát lý luận của mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thể hiện quy luật của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Một là, xét từ quan hệ giữa mục tiêu và những điều kiện, phương tiện để thực hiện mục tiêu thì mục tiêu nói ở đây là thực hiện và thực hành dân chủ. Tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội là điều kiện, là phương tiện để thực hiện và thực hành dân chủ. Trong mục tiêu thực hiện và thực hành dân chủ để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nổi bật vai trò người chủ và năng lực thực hiện quyền làm chủ của người dân. Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập đã nhấn mạnh: Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là xã hội do nhân dân làm chủ.
Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội vốn tồn tại một cách khách quan, tất yếu trong quá trình vận động, xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền cũng như trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong mối quan hệ này, nổi bật nhất và cũng bao trùm nhất là quan hệ giữa dân chủ và pháp luật. Tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương cũng xuất phát từ yêu cầu nhằm cụ thể hóa, hiện thực hóa pháp luật để thực hiện dân chủ và bảo vệ nền dân chủ trong xã hội, trước hết là trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
Phương thức cơ bản để nhân dân làm chủ là thông qua Nhà nước và các cơ quan dân cử. Pháp chế và kỷ cương là vật bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, nhờ đó Nhà nước điều hành các hoạt động quản lý có hiệu lực, vì lợi ích và quyền lợi của nhân dân. Đó là sinh khí, là tính hiện thực của dân chủ, là những giá trị định hướng của phát triển, là xu hướng, triển vọng vươn tới, là khả năng thực tế sẽ trở thành hiện thực. Nhưng để khả năng trở thành hiện thực, cần phải có những điều kiện, những phương tiện để qua đó, nỗ lực hoạt động của các chủ thể - từ con người đến tổ chức, từ cá nhân đến cộng đồng - cùng hợp lực, hợp sức để đạt được kết quả theo ý muốn.
Với tính cách là điều kiện và phương tiện, pháp chế và kỷ cương bảo đảm cho thể chế dân chủ là Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, và qua đó, người dân được thụ hưởng lợi ích, được thực hiện các quyền cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với Nhà nước và xã hội. Kỷ cương được đặt ra và được mọi người cùng tuân thủ, chấp hành, chính là vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi các công dân một khi đã có quyền làm chủ thì cũng phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của người làm chủ. Luận điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, quyền lợi gắn liền với nghĩa vụ, lợi ích gắn liền với trách nhiệm. Đó là thực chất của dân chủ. Theo đó, pháp luật phải được xây dựng thành pháp chế, được pháp chế hóa để bảo đảm khả năng điều chỉnh ý thức và hành vi của con người theo đúng yêu cầu, chuẩn mực pháp lý.
Hai là, mối quan hệ giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội không chỉ nổi bật ở quan hệ giữa mục tiêu và những điều kiện, phương tiện để thực hiện mục tiêu, mà còn thể hiện ở quan hệ giữa mục tiêu với đổi mới và phát triển.
Đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ những khởi động của dân chủ hóa với vai trò là những xung lực chính trị và tinh thần, là lực đẩy rất quan trọng của đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước suốt hơn 35 năm qua.
Thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội liên quan trực tiếp tới chính trị và hệ thống chính trị, trong đó Đảng thể hiện vai trò là chủ thể lãnh đạo và cầm quyền, dẫn dắt xã hội và toàn dân tộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước được xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là rường cột của hệ thống chính trị, thực hiện vai trò, chức năng quản lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình và giám sát, kiểm soát quyền lực. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những thiết chế thực hiện quyền lực xã hội của nhân dân. Đó là những thành tố tham gia vào hệ thống chính trị ở nước ta. Làm tốt vai trò, thực hiện đúng những thẩm quyền và trách nhiệm được phân định rõ ràng cho từng loại thiết chế quyền lực đó (Đảng - Nhà nước - Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội) là phương thức tốt nhất để thực hành dân chủ, nhất là thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị, để phục vụ nhân dân, dựa vào nhân dân và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Ở cơ sở, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, bảo đảm các yêu cầu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, cùng với chú trọng thực hiện dân giám sát, dân thụ hưởng, đó chính là sự kết hợp trong thực hành dân chủ từ các tổ chức đến người dân, hoạt động chính trị trực tiếp của người dân. Sức mạnh, tác dụng, hiệu quả của sự kết hợp này được phát huy bởi dân chủ - đoàn kết - đồng thuận để phát triển.
Trong đổi mới và phát triển, chúng ta không chỉ chú trọng tới ổn định và phát triển, củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ, mà đặc biệt quan trọng là phát triển kinh tế, bởi phải có tăng trưởng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó, phải giảm thiểu thất nghiệp, tạo việc làm ổn định, tích cực xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện sinh kế cho người dân, nhất là đối với người dân ở những vùng đặc biệt khó khăn. Chăm lo an sinh, phúc lợi xã hội để người dân được thụ hưởng lợi ích và có cơ hội phát triển trong đổi mới.
Thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có nội dung tương ứng với nội dung dân chủ hóa kinh tế và dân chủ hóa chính trị cũng đồng thời là thực hành dân chủ trong kinh tế và trong chính trị, tạo cơ sở để đẩy mạnh thực hành dân chủ trong các lĩnh vực, các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội - đó là văn hóa, tinh thần, lối sống và xây dựng môi trường xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng để phát triển con người.
Việc xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh, có hiệu lực trong quản lý, đòi hỏi phải tăng cường pháp chế, siết chặt kỷ luật, kỷ cương xã hội. Mỗi tiến bộ trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp, trong đó có giáo dục nhận thức, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, kỷ cương cho toàn dân, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng, thực hành tiết kiệm đều được xem là mỗi bước tiến của thực hành dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Do đó, quan hệ giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, xét một cách trực tiếp, là mối quan hệ chính trị cần được nhận thức đúng về lý luận và giải quyết tốt trong hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân của hệ thống chính trị. Xét trên bình diện và quy mô rộng hơn, nghĩa là trên các quan hệ kinh tế, xã hội và văn hóa, vấn đề thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội đều tác động và ảnh hưởng tới tiến trình đổi mới và phát triển của nước ta, từ đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế (phát triển kinh tế thị trường), đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, với yêu cầu xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đến đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Cụ thể hơn, để đổi mới toàn diện và đồng bộ, để phát triển nhanh và bền vững, để hội nhập và hiện đại hóa đất nước, phải chú trọng đổi mới thể chế, không chỉ là thể chế kinh tế thị trường mà còn là thể chế phát triển. Đây là nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XIII về tư duy phát triển. Từ xây dựng thể chế phát triển mà tổ chức, sắp xếp lại các tổ chức thiết chế của hệ thống chính trị sao cho bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, phải đặc biệt chú trọng tới nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, theo hướng ưu tiên cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; tới phương thức phân bổ nguồn lực một cách hợp lý, hài hòa từ toàn quốc, vùng, miền, đến địa phương và cơ sở. Đó chính là tạo ra các động lực phát triển, có ý nghĩa như những đột phá của đổi mới, là nỗ lực vượt qua các điểm nghẽn của phát triển đang tồn tại ở nước ta: điểm nghẽn về thể chế, trực tiếp và trước hết là thể chế kinh tế thị trường, điểm nghẽn về hạ tầng kinh tế - xã hội (trong đó có hạ tầng kỹ thuật - công nghệ) và điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện điều đó, cần có những đổi mới về cơ chế, chính sách trong tổng thể cũng như trong từng lĩnh vực. Pháp luật, pháp chế, kỷ cương trở nên có vai trò ngày càng quan trọng để xây dựng thể chế phát triển, tháo gỡ những lực cản của phát triển và chủ động ngăn ngừa những hệ lụy phát triển có thể gây ra, bảo đảm độ an toàn cho đổi mới (không bị chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa); đồng thời, tạo điều kiện để thực hiện và thực hành dân chủ (khắc phục được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng), thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và phòng, tránh cả hai biến thái của nó: tập trung quan liêu và tự do vô chính phủ.
Tóm lại, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một trong những quy luật, tính quy luật của đổi mới và phát triển, của xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc ở nước ta./.
(Còn nữa)
------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 80
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 28, 124
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 39
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 293
(6) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, in trong sách: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 439
(7) Đào Trí Úc: Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 358
Công an quận Đống Đa thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19  (12/09/2021)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Việt Nam hiện nay  (16/06/2021)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển