Qua 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15-11-2004, của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong hoạt động bảo vệ môi trường, tạo sự chuyển biến khá mạnh về nhận thức và hành động của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội... Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được những mục tiêu, nội dung của Nghị quyết, điều này đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư phải tự giác thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Đưa Nghị quyết vào cuộc sống

Sau khi được ban hành, Nghị quyết đã được cấp ủy và chính quyền các cấp phổ biến, quán triệt và tổ chức triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương. Tính đến nay, 100% cấp ủy đảng, chính quyền các bộ, ngành, đoàn thể và tỉnh, thành tổ chức quán triệt Nghị quyết trong đảng viên, cán bộ và nhân dân; 98% quận, huyện, 92% xã, phường đã phổ biến, giới thiệu Nghị quyết. Ngoài ra, các tỉnh, thành ủy đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo triển khai công tác bảo vệ môi trường theo tinh thần của Nghị quyết và ủy ban nhân dân của nhiều tỉnh, thành đã ban hành chương trình, kế hoạch hành động bảo vệ môi trường. Có 89% các quận, huyện, 80% xã, phường đã ban hành các văn bản tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết. Nhìn chung, nhận thức về bảo vệ môi trường của các cấp ủy, đảng viên, cán bộ, nhân dân và cộng đồng xã hội đã được nâng lên một bước. Dân cư trên các địa bàn khác nhau đã bước đầu quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường, nhận thức được tầm quan trọng của môi trường tác động đến sức khỏe và đời sống cộng đồng. Có 3.128/3.616 xã (khoảng 85%) có quy ước, hương ước của cộng đồng dân cư, trong đó có 2.811 xã (chiếm 84%) có nội dung, quy định về bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. Nguyên nhân là do một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng mức, đầy đủ tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như: chậm ban hành các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường; đặc biệt, tư tưởng “nặng về kinh tế”, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường còn phổ biến; việc cụ thể hóa các nội dung Nghị quyết thành các kế hoạch, chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương còn chậm; công tác kiểm tra, theo dõi việc triển khai các chương trình, kế hoạch hành động không làm thường xuyên, nghiêm túc nên tiến độ thực hiện chậm, kết quả đạt được còn hạn chế. Bên cạnh đó, ý thức về bảo vệ môi trường vẫn chưa thành thói quen, nếp sống của đa số dân cư; ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của một số lớn nhà máy, xí nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh, nhất là các hộ sản xuất thuộc các làng nghề còn thấp, chưa chủ động, tự giác thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của mình, vẫn chủ yếu chạy theo mục tiêu lợi nhuận, coi nhẹ yếu tố bảo vệ môi trường, chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải, hoặc nếu có xây dựng thì hoạt động mang tính đối phó, thậm chí có nhiều hành vi "lách, trốn” luật.

Tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường

Để tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội ban hành nhằm quán triệt và thể hiện đầy đủ các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành các văn bản triển khai Luật Bảo vệ môi trường, như: bảo vệ môi trường trong các khâu lập, thẩm định, phê duyệt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; quy định tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế nhà nước... Bên cạnh việc ban hành các văn bản thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41 gồm 20 nhiệm vụ giao cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện. Đến nay, có 6 chương trình, đề án, dự án đã thực hiện có kết quả, 12 chương trình, đề án, dự án đang triển khai thực hiện và lần đầu tiên trong các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của đất nước 2006 - 2010, có riêng một nhóm chỉ tiêu về môi trường bên cạnh nhóm chỉ tiêu về kinh tế - xã hội.

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc rà soát, hoàn thiện hệ thống các văn bản, quy định liên quan đến bảo vệ môi trường trong các hoạt động kinh tế, cũng như việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ngày càng được các bộ, ngành, địa phương quan tâm, kiện toàn. Cục Cảnh sát môi trường, Bộ Công an và các Phòng Cảnh sát môi trường của 64 tỉnh, thành phố trên cả nước đã được thành lập nhằm góp phần nâng cao năng lực giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Có 672/674 quận, huyện thành lập Phòng Tài nguyên và Môi trường. Các địa phương cũng đã và đang tiến hành việc thành lập các Chi cục bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường. Đặc biệt, tại Nghị định số 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tạo tiền đề và điều kiện thuận lợi để tăng cường bộ máy quản lý nhà nước về môi trường cũng như bảo đảm sự chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường mang tính hệ thống từ Trung ương đến địa phương.

Bộ máy quản lý môi trường từ Trung ương đến cơ sở đã được tăng cường một bước về tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý không chỉ ở hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường mà tại cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn những tồn tại cần phải khắc phục, đó là hệ thống pháp luật và chính sách về môi trường như các quy định liên quan đến kinh tế môi trường, áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường (liên quan đến hệ thống thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường, quỹ môi trường, chi trả dịch vụ môi trường...), hỗ trợ và ưu đãi đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường còn thiếu và chưa đồng bộ. Phần lớn chương trình, đề án, dự án thuộc Quyết định số 34 triển khai chậm và việc lồng ghép với các nhiệm vụ chính trị của bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ.

Bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tuy đã được tăng cường, nhưng còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực; trang thiết bị phục vụ cho công tác giám sát, kiểm soát ô nhiễm môi trường còn thiếu trầm trọng; sự phối hợp liên ngành, liên vùng còn kém hiệu quả dẫn đến nhiều trường hợp chồng chéo về chức năng, trong khi lại bỏ trống nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền. ở địa phương, số lượng cán bộ quản lý môi trường ở các Sở Tài nguyên và Môi trường còn quá mỏng, trình độ chuyên môn lại hạn chế, nên việc thực hiện công tác quản lý nhà nước bảo vệ môi trường ở cấp tỉnh còn nhiều bất cập. Cơ cấu tổ chức và nhân sự của cơ quan tài nguyên và môi trường các cấp tại địa phương, nhất là cấp huyện, xã hiện đang có sự mất cân đối trên nhiều mặt. Những bất cập này sẽ càng bộc lộ và trở nên gay gắt khi triển khai nghiêm túc, đầy đủ các nội dung của Luật Bảo vệ môi trường.

Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường

Ở cấp trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký Nghị quyết liên tịch về phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững với ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Cựu chiến binh. ở các địa phương, hầu hết các Sở Tài nguyên và Môi trường đã ký kết nghị quyết liên tịch với các đoàn thể nhân dân nói trên. Việc phối hợp hành động này nhằm tăng cường trách nhiệm và huy động mạnh mẽ mọi lực lượng, thành phần xã hội và cá nhân tham gia bảo vệ môi trường. ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức phát động trong toàn quốc, cộng đồng dân cư và hệ thống mặt trận phong trào toàn dân tham gia bảo vệ môi trường. Bước đầu đã triển khai xây dựng mô hình lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” tại 10 tỉnh, thành phố và đang tích cực triển khai đề án thực hiện Chương trình "Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường”. Bên cạnh đó, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Kinh tế môi trường Việt Nam, Hội Nước sạch và Vệ sinh môi trường Việt Nam, Hội Nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin, các hội nghề nghiệp khác có liên quan và các hội thành viên ở các tỉnh, thành trong hoạt động của mình cũng đã thực hiện nhiều nhiệm vụ xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Sự phối hợp hành động bảo vệ môi trường theo hướng xã hội hóa đã huy động được đông đảo các thành phần, các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ môi trường dưới nhiều hình thức khác nhau.

Xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường được quan tâm và đẩy mạnh ở Trung ương và nhiều địa phương, cơ sở, từ việc thể chế hóa các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng dân cư, cá nhân cho đến việc xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng và phát triển các điển hình tiên tiến, các mô hình cộng đồng dân cư tự quản trong bảo vệ môi trường. Có đến 1.630/3.616 xã, phường (chiếm 40,78%) có các tổ, đội thu gom rác thải. Một số các tổ, đội này do chính quyền cơ sở tổ chức, đa phần còn lại do nhân dân tự nguyện đứng ra tổ chức. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã tư nhân đã đăng ký và được cấp phép hành nghề trong vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại. ở nhiều đô thị, nhất là các đô thị loại một như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... khu vực tư nhân và hợp tác xã giữ vị trí quan trọng trong việc tái chế, tái sử dụng các loại chất thải.

Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng, cộng đồng dân cư trong việc tham gia và giám sát công tác bảo vệ môi trường bước đầu đã được phát huy. Các loại hình hoạt động bảo vệ môi trường đã được đa dạng hóa, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường; khuyến khích thành lập các tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định về bảo vệ môi trường. Sự phối hợp liên ngành và giữa các ngành với địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực từ việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách đến việc tổ chức thực hiện, phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc, nóng bỏng ở các địa phương.

Sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vào các hoạt động bảo vệ môi trường được tăng cường cả về diện và chiều sâu. Nhiều mô hình tự quản bảo vệ môi trường ở cơ sở, dịch vụ thu gom, xử lý chất thải, những điển hình người tốt, việc tốt trong hoạt động bảo vệ môi trường đã được thí điểm, triển khai và nhân rộng trong xã hội. Một số hội, đoàn thể nhân dân thực hiện khá tốt chức năng tư vấn, phản biện và giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, dịch vụ trên địa bàn.

Tuy nhiên, không ít hoạt động của các đoàn thể nhân dân còn mang tính hình thức, hiệu quả còn hạn chế; công tác bảo vệ môi trường chưa thực sự là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các đoàn thể nhân dân; hoạt động bảo vệ môi trường chưa thành phong trào quần chúng rộng rãi, thường xuyên và liên tục; phối hợp liên ngành, địa phương để giải quyết các vấn đề môi trường trong thời gian qua tiến hành chưa đồng bộ và thiếu chặt chẽ, chưa đưa ra được các cơ chế, hình thức phối hợp có hiệu quả và chưa thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.

Đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường

Trong thời gian qua, bước đầu đã tạo được sự chuyển biến quan trọng trong đầu tư bảo vệ môi trường từ ngân sách nhà nước. Từ năm 2006, kinh phí cho sự nghiệp môi trường đã được bố trí không dưới 1% tổng chi ngân sách hằng năm. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí chi sự nghiệp môi trường. Ngoài ra, các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư (ngoài ngân sách nhà nước) cho hoạt động bảo vệ môi trường cũng đang được khẩn trương xây dựng.

Cùng với sự đầu tư của Nhà nước, việc xã hội hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường cũng đang được thực hiện ở tất cả các địa phương trong cả nước. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp về bảo vệ môi trường ra đời, nhiều dịch vụ công về bảo vệ môi trường được các cá nhân, tổ chức đứng ra thực hiện (tổ thu gom rác, công ty xử lý rác thải, công ty môi trường, hợp tác xã vệ sinh môi trường...), nhiều doanh nghiệp hướng tới sản xuất đi đôi với việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên (Tổng công ty GOSA: sản xuất gạch gỗ xuất khẩu từ gỗ vụn, bột gỗ...). Theo số liệu báo cáo, có 324/3.616 xã, phường (xấp xỉ 10%) đã huy động được sự đóng góp của nhân dân cho các hoạt động vệ sinh môi trường.

Hệ thống các quỹ bảo vệ môi trường như Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ bảo vệ môi trường của các bộ, ngành và địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai... ngày càng phát triển, hỗ trợ một số doanh nghiệp đầu tư xử lý ô nhiễm, chất thải và triển khai các phương án bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp có quan tâm hơn đến công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một số doanh nghiệp đã đầu tư các hệ thống xử lý chất thải bảo đảm các quy định tiêu chuẩn môi trường.

Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ trên, còn một số hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là: do việc quản lý và sử dụng 1% tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường mới bắt đầu thực hiện, nên có những bất cập và khó khăn; công tác xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường ở các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể và các địa phương chưa được quan tâm đúng mức; không ít địa phương chưa bố trí đúng và bố trí đủ mức kinh phí tối thiểu 1% cho sự nghiệp bảo vệ môi trường; đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu bảo vệ môi trường; kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường còn rất thiếu và yếu kém; đầu tư từ các tổ chức, cá nhân cho bảo vệ môi trường rất ít và đầu tư từ các nguồn ngân sách nhà nước (ngoài ngân sách sự nghiệp bảo vệ môi trường) còn hạn chế...

Có thể thấy việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động bảo vệ môi trường của đất nước: công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tập trung đẩy mạnh; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường được xây dựng khá hoàn thiện; nhận thức về bảo vệ môi trường của các cấp ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã chuyển biến khá rõ rệt; hệ thống tổ chức quản lý môi trường được tăng cường, hoàn chỉnh hơn; đầu tư từ ngân sách cho bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường được quan tâm; các ngành, địa phương đã chú ý hơn nhiệm vụ bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường đã có những kết quả khích lệ cả về quy mô và chất lượng; một số điểm “nóng” về môi trường đã được tập trung giải quyết có kết quả; ô nhiễm môi trường lưu vực sông, làng nghề, đô thị, nông thôn đã và đang được quan tâm giải quyết và bước đầu đạt được kết quả nhất định.

Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn. Bên cạnh các vấn đề về ô nhiễm và suy thoái môi trường do chiến tranh và lịch sử để lại chưa được khắc phục thì các vấn đề môi trường mới nảy sinh do quá trình phát triển lại đang diễn ra một cách bức xúc như: ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, lưu vực sông, các đô thị và các khu dân cư tập trung ngày càng nghiêm trọng. Nhiều nơi chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tình trạng môi trường tiếp tục xuống cấp sẽ đem lại những hậu quả nặng nề: cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái; sức khỏe nguồn nhân lực bị suy giảm, thậm chí để lại những di chứng, những căn bệnh nan y, trở thành gánh nặng cho xã hội; phá vỡ nguyên tắc phát triển bền vững.

Nếu không chú trọng đúng mức, hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, trong tương lai không xa, đất nước sẽ phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực để giải quyết những hậu quả do ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mang lại. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, quán triệt đầy đủ và thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị với kết quả cao nhất là yêu cầu cấp thiết đối với các tổ chức đảng, chính quyền các cấp, với từng cán bộ, đảng viên; đồng thời cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội đối với sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước./.