Nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”

TS Nguyễn Hùng Sơn
Đại tá, Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng
13:50, ngày 19-05-2024

TCCS - Bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tư duy chiến lược này nhằm chủ động phát hiện, đẩy lùi các nguy cơ đe dọa tới an ninh quốc gia, không để đất nước rơi vào tình thế bất lợi. Đây là nhiệm vụ quan trọng của công tác đối ngoại quốc phòng với mục tiêu cao nhất là thực hiện kế sách chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo lập, duy trì môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Toàn quyền Australia David Hurley trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam tại Cục gìn giữ hòa bình Việt Nam, ngày 4-4-2023 _Nguồn: dantri.vn

Tạo lập môi trường hòa bình, đẩy lùi nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia

Đối ngoại quốc phòng là hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, do Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp tiến hành, bằng phương pháp đàm phán và các hình thức hòa bình khác nhằm góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về đối ngoại và quốc phòng trong từng thời kỳ cách mạng. Các hình thức đối ngoại quốc phòng mang tính hòa bình, sử dụng phương pháp đàm phán là chủ yếu, thông qua đối thoại, thương lượng, thuyết phục để giải quyết các vấn đề quân sự - quốc phòng trên bình diện quốc tế. Là một bộ phận công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đối ngoại quốc phòng góp phần thực hiện tốt phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(1).

Đặc trưng của đối ngoại quốc phòng là giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế về quốc phòng bằng biện pháp hòa bình. Thông qua hoạt động này, những bất đồng, khác biệt, xung đột lợi ích được giải quyết bằng những sáng kiến, cơ chế hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các đối tác (đơn cử như, Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN - ARF, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN - ADMM, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng - ADMM+). Đây là những công cụ hữu hiệu để duy trì và củng cố hòa bình, an ninh quốc tế, giảm thiểu nguy cơ, đẩy lùi thách thức đe dọa đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nhấn mạnh: “Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới”(2).

Đối ngoại quốc phòng Việt Nam thông qua các cơ chế, diễn đàn hợp tác song phương và đa phương về quốc phòng, trên nền tảng của các thể chế an ninh khu vực và toàn cầu, góp phần tham mưu, nắm bắt, xử lý nhanh và hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, góp phần chuyển hóa “đối tượng” thành “đối tác”, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, đe dọa đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, thời gian qua, “công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng được đẩy mạnh, thiết thực, hiệu quả, tiếp tục là điểm sáng, là một trong những trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa””(3).

Mặt trận đối ngoại quốc phòng đã trở thành tuyến đầu trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia “từ sớm, từ xa”. Các hoạt động ngoại giao quốc phòng nhiều tầng, nấc đã đóng góp trực tiếp vào việc đưa các mối quan hệ của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, củng cố tình hữu nghị và hợp tác, chủ động, tích cực tham gia tạo dựng luật chơi trong các thể chế đa phương, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên hợp quốc để có thể tận dụng chính các luật chơi đó để bảo vệ có hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc. Kể từ năm 2014, Việt Nam đã cử lực lượng quân đội tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu một bước nâng tầm hội nhập quốc tế và đóng góp của Việt Nam đối với nỗ lực quốc tế duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

Minh bạch chính sách quốc phòng của Việt Nam, củng cố và tăng cường lòng tin chiến lược từ các đối tác

Hoạt động quốc phòng phần lớn liên quan đến lực lượng vũ trang. Trong thực thi chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia, quân sự - quốc phòng là công cụ quan trọng, hỗ trợ hiệu quả các mục tiêu an ninh, phát triển và mở rộng, gia tăng ảnh hưởng quốc tế. Bên cạnh đó, “thế lưỡng nan về an ninh” trong quan hệ quốc tế thường đặt các quốc gia vào trạng thái “chạy đua vũ trang” để bảo đảm an ninh. Một khi hoạt động này chuyển từ trạng thái vô ý thức đến có ý thức, sẽ dẫn tới gia tăng căng thẳng, ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, ổn định của khu vực và quốc tế, làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn đối với mỗi quốc gia có liên quan.

Minh bạch về chính sách quốc phòng là cơ sở để xây dựng mối quan hệ hợp tác, tin cậy, hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia, giảm thiểu nguy cơ về an ninh do “chạy đua vũ trang” gây ra. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, đối ngoại quốc phòng Việt Nam đã tích cực, chủ động minh bạch hóa chính sách quốc phòng. Thông qua các kênh truyền thông đối ngoại, tại các diễn đàn an ninh song phương và đa phương, đối ngoại quốc phòng Việt Nam góp phần chỉ rõ cho bạn bè quốc tế hiểu rõ: “Chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế”(4).

Minh bạch hóa chính sách quốc phòng là xuất phát điểm quan trọng để Việt Nam xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược với các đối tác trên thế giới. Khi những nghi kỵ lẫn nhau về an ninh được giải quyết, các bên liên quan chia sẻ lợi ích chung về mục tiêu giữ gìn hòa bình và an ninh khu vực, toàn cầu, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác sẽ có sự phát triển lên các nấc thang mới cao hơn, phù hợp hơn với thế và lực của mỗi nước. Đối ngoại quốc phòng Việt Nam góp phần tạo lập và duy trì các kênh kết nối Việt Nam với các đối tác trong lĩnh vực quân sự - quốc phòng, từ đó thể hiện rõ cam kết của Việt Nam về việc “tăng cường lòng tin chiến lược, duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển”(5).

Huy động, sử dụng hiệu quả nguồn lực quốc tế xây dựng quân đội - lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”

Để thực hiện có hiệu quả bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, cần phải có lực lượng quân đội mạnh, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đủ khả năng bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, sẵn sàng đánh trả và đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang thực hiện chủ trương xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại”(6). Một trong những vấn đề đặt ra là việc bảo đảm nguồn lực cho việc hiện đại hóa quân đội. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, việc kết hợp nội lực với ngoại lực là tất yếu nhằm huy động và tận dụng có hiệu quả những thành tựu của hội nhập quốc tế để xây dựng quân đội.

Đối ngoại quốc phòng tạo nguồn lực đóng góp trực tiếp vào việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hoạt động hợp tác quốc tế giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với các đối tác được triển khai trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực và hiện đại hóa vũ khí, trang bị. Trong lĩnh vực hợp tác công nghiệp quốc phòng và mua sắm vũ khí, trang bị của Quân đội nhân dân Việt Nam được triển khai với các nước, như Trung Quốc, Cuba, Nga, Israel, Nhật Bản, Ấn Độ và một số nước châu Âu. Hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Việt Nam và Nga có những bước phát triển về chất, từ việc thuần túy mua sắm vũ khí trang bị quân sự đã bước sang giai đoạn chuyển giao công nghệ, sửa chữa, cải tiến, nâng cấp và sản xuất tại Việt Nam.

Việt Nam và Trung Quốc đạt nhiều thỏa thuận hợp tác công nghiệp quốc phòng, đáng chú ý là hợp tác về kỹ thuật quân sự lục quân, trong đó có việc nghiên cứu, hợp tác sản xuất, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ. Việt Nam tiến hành hợp tác sản xuất một số sản phẩm công nghiệp quốc phòng với Cuba, hợp tác đóng tàu với Ấn Độ. Nhật Bản ủng hộ Việt Nam trong việc hợp tác liên doanh sản xuất sản phẩm có tính lưỡng dụng, đào tạo cán bộ, nghiên cứu, sản xuất chế tạo, chuyển giao công nghệ, nhất là công nghiệp đóng tàu cho các lực lượng thực thi pháp luật trên biển.

Sự kiện đáng chú ý là, năm 2014, từ chỗ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương áp đặt gần 4 thập niên đối với Việt Nam, nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Barack Obama (tháng 5-2016), Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm này, giúp cải thiện năng lực quốc phòng của Việt Nam, đặc biệt là năng lực giải quyết các vấn đề an ninh hàng hải. Đây là một dấu hiệu tích cực cho việc triển khai quan hệ đối tác toàn diện (nay là đối tác chiến lược toàn diện), đánh dấu bước bình thường hóa đầy đủ quan hệ giữa hai nước. Qua đó, Việt Nam có điều kiện tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ và khả năng phối hợp tác chiến trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hạn chế sự độc quyền của các đối tác khác.

Lĩnh vực hợp tác đào tạo, huấn luyện sĩ quan được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các học viện, nhà trường quân đội của Việt Nam hiện đào tạo học viên quân sự đến từ nhiều quốc gia, như Lào, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Mỹ, Nga, Cuba. Việt Nam cũng cử học viên đi học tập, đào tạo tại nhiều nước, như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Australia, New Zealand. Trong đó, Nga và gần đây có Mỹ là những nước rất quan tâm tới việc hợp tác đào tạo học viên quân sự cho Việt Nam.

Đoàn cứu hộ, cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam với nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ trong hoạt động hỗ trợ khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ_Nguồn: qdnd.vn

Tiếp tục nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới

Đối ngoại quốc phòng góp phần thực hiện tốt phương châm Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Tuy nhiên, hoạt động này còn có mặt hạn chế. Nhận thức về đối ngoại về quốc phòng có mặt chưa thống nhất. Xác định nhu cầu, mục tiêu hội nhập, hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng có mặt chưa cụ thể, thiết thực. Hợp tác thương mại quân sự chưa gắn kết chặt chẽ với chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quân sự và hợp tác chiến lược quốc phòng. Hợp tác, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, nghệ thuật quân sự đã được triển khai nhưng chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Do vậy, để góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, đối ngoại quốc phòng Việt Nam cần thực hiện tốt một số phương hướng, giải pháp sau:

Một là, xác định mục tiêu, nguyên tắc trong đối ngoại quốc phòng gắn với vấn đề bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng cần nhất quán thực hiện mục tiêu xuyên suốt là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc”(7); giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi cho các lĩnh vực khác hội nhập quốc tế để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở thế và lực mới của đất nước, đối ngoại quốc phòng Việt Nam cần chủ động, tích cực phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Đồng thời, Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào.

Hoạt động đối ngoại quốc phòng nhất quán theo phương châm: “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”(8) nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; tăng cường lòng tin chiến lược, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, lấy hợp tác là chính yếu trên cơ sở kiên định chủ quyền lãnh thổ, độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong quan hệ hợp tác quốc phòng với quân đội các nước phải luôn dựa trên tinh thần bình đẳng, không phân biệt đối xử; luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.

Đối ngoại quốc phòng của Việt Nam cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, bình đẳng, cùng có lợi, kết hợp chặt chẽ đối ngoại với kinh tế, quốc phòng và an ninh, bảo đảm bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường không có nghĩa là khép kín, biệt lập, trái lại là điều kiện để mở rộng đối ngoại quốc phòng. Hợp tác quốc tế về quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ môi trường hòa bình. Ngược lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi để tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng. Không có độc lập, tự chủ thì không thể hợp tác quốc tế về quốc phòng thành công.

Hai là, đẩy mạnh đa phương hóa, tạo thế cân bằng chiến lược, đan xen lợi ích quân sự - quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đa phương hóa quan hệ đối ngoại quốc phòng là thiết lập quan hệ quân sự - quốc phòng với quân đội các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đa phương hóa quan hệ đối ngoại quốc phòng góp phần giúp tạo thế cân bằng chiến lược với các nước lớn, tránh không bị lệ thuộc vào một nước, một tổ chức quốc tế nào trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đa phương hóa quan hệ đối ngoại quốc phòng cũng góp phần tạo thế đan xen về lợi ích, buộc các chủ thể phải tính toán, so sánh thiệt hơn trong việc xử lý các vấn đề có liên quan đến Việt Nam.

Việc phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các phong trào tiến bộ trên thế giới là cơ sở để tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là môi trường để thể hiện quan điểm đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của Việt Nam, đồng thời kêu gọi sự ủng hộ của các nước, các tổ chức, các lực lượng cùng góp chung tiếng nói, hành động ủng hộ Việt Nam. Thông qua các cơ chế đa phương, đối ngoại quốc phòng tham gia tích cực, chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu trong thời bình, nhằm “bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc mà không cần phải tiến hành chiến tranh”(9). Cùng với đa phương hóa, hoạt động đối ngoại quốc phòng cũng chú trọng đa dạng hóa hình thức và nội dung đối ngoại.

Hiện nay, Việt Nam đã tham gia Hội nghị không chính thức Tư lệnh Lực lượng quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM) và các hội nghị quân chủng, như Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN, Hội nghị Tư lệnh Không quân các nước ASEAN, Hội nghị những người đứng đầu ngành quân y các nước ASEAN (ACMMC). Việc tham dự ADMM giúp Việt Nam nắm bắt quan điểm, chính sách quốc phòng các nước; bày tỏ quan điểm, lập trường về các vấn đề quốc phòng - an ninh khu vực nói chung, của Việt Nam nói riêng. Đối với ADMM+, Quân đội nhân dân Việt Nam có thể đóng góp nhiều sáng kiến về quốc phòng - an ninh cho mục đích hòa bình.

Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á - Thái Bình Dương (Đối thoại Shangri-La) - hội nghị mà Việt Nam tham gia ngay từ những ngày đầu - là tiến trình góp phần xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Thông qua tham dự Đối thoại Shangri-La, thế giới hiểu rõ hơn về tinh thần yêu chuộng hòa bình, sự chính nghĩa và quyết tâm của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng trên biển. Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), từ chỗ chủ yếu thảo luận các vấn đề an ninh, đã chuyển sang thảo luận các vấn đề quốc phòng, tập trung thúc đẩy và tăng cường sự hợp tác giữa các thành viên trong việc đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển của ARF, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới. Chính vì vậy, Bộ Quốc phòng Việt Nam chủ động phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao, có những đóng góp tích cực đối với ARF.

Trong Liên hợp quốc, Việt Nam đã cùng các quốc gia thành viên có những đóng góp quan trọng vào việc gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế. Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình thể hiện cụ thể việc vận dụng tư duy hội nhập quốc tế của Đảng, là sự thay đổi về chất trong cách tiếp cận đối với các hoạt động hợp tác khu vực và quốc tế về quốc phòng. Đây không chỉ đơn thuần là hợp tác để giải quyết các vấn đề an ninh khu vực và thế giới đang nổi lên theo hướng có lợi cho Việt Nam, mà còn thể hiện cách tiếp cận mới, coi các thách thức an ninh chung của khu vực và thế giới cũng là thách thức của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Quan điểm của Việt Nam về việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc nhằm góp phần ngăn ngừa xung đột, khôi phục hòa bình, an ninh quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình cho tái thiết và phát triển. Đồng thời, nâng cao hiểu biết, tạo dựng, củng cố lòng tin với quân đội các nước; học tập quân đội các nước kinh nghiệm về huấn luyện, tổ chức lực lượng cơ động để giải quyết khủng hoảng, nhân đạo. Việt Nam tham gia trên cơ sở hoàn toàn độc lập, tự chủ, phù hợp với lợi ích quốc gia, điều kiện và khả năng của Việt Nam và chỉ tham gia các hoạt động vì mục đích hòa bình, nhân đạo, tái thiết trong khuôn khổ Liên hợp quốc; chỉ tham gia những chiến dịch đã được các bên xung đột mời Liên hợp quốc tiến hành và được dư luận trong nước đồng tình, ủng hộ.

Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền về công tác đối ngoại quốc phòng trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đối ngoại quốc phòng do Bộ Quốc phòng quản lý, điều hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo về đối ngoại quốc phòng có ý nghĩa quyết định đến việc phát huy hiệu quả vai trò của hoạt động này trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Thời gian tới, cần quán triệt, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và quân đội về hội nhập quốc tế, đối ngoại và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về chủ trương hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, chính sách quốc phòng vì hòa bình của Việt Nam, tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại quốc phòng với các đối tác và cộng đồng quốc tế.

Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối ngoại quốc phòng, cần xây dựng và triển khai Chiến lược về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Xác định cấp độ hội nhập quốc tế về quốc phòng phù hợp với mức độ quan hệ hợp tác với từng đối tác. Tập trung triển khai tổ chức thực hiện tốt ba khâu đột phá trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, đó là: xây dựng, củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định, vững chắc, cùng phát triển với Trung Quốc, Lào, Campuchia; chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ quân đội.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành; cơ chế, chính sách, hệ thống văn bản pháp lý liên quan, bảo đảm hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạt hiệu quả thiết thực và phù hợp với luật pháp quốc tế. Xây dựng chiến lược tổng thể để chỉ đạo thống nhất các hoạt động hội nhập quốc tế về quốc phòng.

Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng là vấn đề tổ chức bộ máy. Do đó, thời gian tới cần củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ và nâng cao năng lực nghiên cứu, tham mưu của hệ thống cơ quan, đơn vị chuyên trách về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Bố trí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan chuyên trách đối ngoại có quân hàm phù hợp với yêu cầu lễ tân và đối đẳng trong quan hệ. Nâng cao hiệu quả công tác tùy viên quốc phòng theo định hướng hoàn thiện cơ chế điều hành, chỉ đạo hoạt động, bảo đảm tính thống nhất, kịp thời, chặt chẽ và hiệu quả. Xây dựng tổ chức, biên chế, bố trí tùy viên quốc phòng phù hợp, ổn định, nhất là tại các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống.

Nhằm giải quyết tốt vấn đề nguồn lực trong xây dựng quân đội hiện đại, đối ngoại quốc phòng cần thông qua các thể chế song phương và đa phương, tăng cường hợp tác chuyển giao công nghệ; hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các đối tác. Kết hợp quan hệ thương mại, kinh tế và công nghiệp quốc phòng với tăng cường tiếp thu, áp dụng các quy trình quản lý, sản xuất theo cơ chế thị trường; đa dạng hóa các mối quan hệ để tránh bị lệ thuộc vào đối tác. Tạo điều kiện để doanh nghiệp quốc phòng chủ động tham gia hội nhập quốc tế, thực hiện tốt việc kết hợp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh với bảo đảm quốc phòng - an ninh.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(10). Đây là tư tưởng, phương châm chỉ đạo cho hoạt động đối ngoại quốc phòng được triển khai thiết thực, hiệu quả, đúng mục tiêu, nguyên tắc, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, những biến đổi nhanh chóng với tác động hai chiều thuận - nghịch của các nhân tố thời đại đã và đang tác động đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với vai trò là mũi tiên phong trên lĩnh vực đối ngoại, hoạt động đối ngoại quốc phòng cần kiên định về mục tiêu, nguyên tắc, đồng thời linh hoạt về sách lược, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng và thế trận đối ngoại trên bình diện quốc tế, phát huy tốt nhân tố thời đại trong bảo vệ Tổ quốc./.

----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 256
(2) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 26
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 172
(4) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Sđd, tr. 25
(5) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Sđd, tr. 28
(6) Tổng cục Chính trị: Tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2020, tr. 45, 46
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 66
(8) Tổng cục Chính trị: Tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Sđd, tr. 66
(9) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Sđd, tr. 31
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 66