TCCS - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống lý luận cách mạng về cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, do C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin xây dựng và phát triển trên cơ sở những thành tựu khoa học, tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Vận dụng và phát triển những chỉ dẫn, phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để tìm lời giải lý luận phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Tính tất yếu của việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống lý luận cách mạng về cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, do C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin xây dựng và phát triển trên cơ sở những thành tựu khoa học, tư tưởng tiến bộ của nhân loại và cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội, đặc biệt là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản, giai cấp địa chủ phong kiến ở thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX. Hệ thống lý luận đó đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động không chỉ trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ xã hội cũ do các giai cấp bóc lột dựng lên, mà còn xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa dân chủ, giàu mạnh, bình đẳng, tự do và phát triển cho tất cả mọi người.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ thăm và chúc tết công nhân các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương_Nguồn: chinhphu.vn

Từ thực tiễn của lịch sử đặt ra một số câu hỏi không chỉ ở Việt Nam hiện nay, mà đã từng có ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, châu Á như: 1- Việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin như thế nào là đúng đắn; thế nào là vận dụng sai, giáo điều, xét lại và phá hoại? 2- Ranh giới của sự phát triển và xét lại; của sự trung thành và giáo điều; của sự sáng tạo và chệch hướng là như thế nào và ở đâu; có hay không có những ranh giới như vậy? 3- Nếu không chỉ ra được một ranh giới tường minh giữa những khả năng nói trên thì liệu có thể bị lợi dụng để gây mất đoàn kết, phân rã về tư tưởng trong các đảng cộng sản ? Đây là những câu hỏi không dễ trả lời. Tuy nhiên, nhìn khái quát sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như những thăng trầm của sự nghiệp đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, có thể trả lời tóm tắt một phần các câu hỏi đó như sau:

Thứ nhất, những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học là C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(1). Chủ nghĩa Mác không phải là cẩm nang chứa sẵn những lời giải cho thực tiễn sinh động để các đảng công nhân về sau mở ra áp dụng cho đường lối cách mạng của mình, mà nó là một chỉ dẫn khoa học cho sự bắt đầu nghiên cứu thực tiễn và phương pháp nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn để tìm ra lời giải cho mỗi chính đảng trên con đường đấu tranh của mình. Sau này, V.I. Lê-nin cũng chỉ ra rằng: “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nó không thể không phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã hội(2). Những luận điểm nói trên đã khẳng định đường lối, chính sách của các chính đảng cách mạng không thể lấy nguyên văn các luận điểm, các nguyên lý có sẵn trong chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nhất nhất làm theo từng câu chữ; mà phải xem nó là điểm xuất phát, là định hướng, là gợi ý để tìm trong thực tiễn của thời đại mình những câu trả lời, kết luận cho đường lối, chính sách của đảng.

Thứ hai, tư tưởng xuyên suốt của chủ nghĩa xã hội khoa học là luận chứng khoa học và cách mạng cho mục tiêu và con đường đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi mọi bóc lột lao động và áp bức xã hội để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, con người được tự do phát triển. Con đường mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động hướng tới ở mỗi dân tộc, đất nước là khác nhau, cho nên giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đó sẽ thực hiện bằng những cách thức, phương pháp khác nhau, có lúc thuận lợi, có lúc thất bại tạm thời, để đi đến thành công.

Thứ ba, thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong bản thân các đảng cộng sản vẫn có thể diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng, nhiều khi rất quyết liệt, giữa các quan điểm khác nhau. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không cung cấp những cách làm có sẵn, mà nó vạch ra điểm xuất phát để nghiên cứu thực tiễn; song, đã có rất nhiều kẻ cơ hội, xét lại lợi dụng điểm này, giả danh đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin hoặc cắt xén một vài nội dung, câu chữ của kinh điển Mác - Lê-nin để chống lại hệ thống lý luận đó. Họ cố tình không đứng trên nguyên tắc khách quan và mảnh đất hiện thực, điểm xuất phát thực tiễn để nghiên cứu con đường đi tới mục tiêu cuối cùng.

Một số yêu cầu trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở Việt Nam hiện nay

Từ những nhận thức có tính phương pháp luận, có thể xác định một số yêu cầu trong vận dụng những chỉ dẫn, phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, cán bộ, đảng viên phải được giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cơ bản, hệ thống, thực tiễn và hiện đại; đồng thời, bám sát thực tiễn đất nước và thế giới, chọn trúng và kịp thời các vấn đề cần nghiên cứu, vận dụng, phát triển. Tiêu chí này đòi hỏi phải nắm vững hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các bộ phận cấu thành thì mới có thể hiểu được bản chất sâu xa của lý luận và có thể vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách đúng đắn, sáng tạo. Hiểu sâu sắc cả nội dung và phương pháp luận; gắn các khái quát lý luận của các nhà kinh điển vào các điều kiện cụ thể mà các ông đã triển khai và đặt các khái quát đó vào bối cảnh ngày nay xem chúng còn những giá trị gì.

Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong xây dựng Cương lĩnh, đường lối cách mạng của mình; song, từ nguyên lý cơ bản, trung thành với mục tiêu cuối cùng, Đảng ta coi lý luận là điểm xuất phát để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, tìm ra lối đi cho mình. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(3). Đây chính là sự khẳng định chắc chắn của Đảng, cho chúng ta “chìa khóa” để hiểu biết và xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, phải nắm vững thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Là một khoa học, chủ nghĩa Mác - Lê-nin có phương pháp nghiên cứu đặc trưng, gồm: 1- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; 2- Lô-gíc và lịch sử; 3- Khái quát hóa, trừu tượng hóa; 4- Tổng kết thực tiễn. Người nghiên cứu dù chọn đúng và trúng vấn đề nghiên cứu vẫn chưa bảo đảm kết quả nghiên cứu có chất lượng tốt, hiệu quả cao, nếu không có và không biết sử dụng đúng phương pháp luận khoa học. Nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải biết trong mỗi tác phẩm, các nhà kinh điển dùng phương pháp nào để viết nên tác phẩm ấy; tương tự như vậy, muốn vận dụng thành công các luận điểm khoa học trong mỗi tác phẩm, thì phải hiểu, sử dụng thành thạo phương pháp nghiên cứu đã sử dụng để xây dựng nên các luận điểm trong tác phẩm đó.

Thứ ba, phải có đóng góp thiết thực cho quá trình xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Điều này xuất phát từ mục đích cao nhất của nghiên cứu, vận dụng, phát triển lý luận là phục vụ thực tiễn, mà muốn phục vụ thực tiễn trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, thì những kết quả nghiên cứu lý luận phải được ứng dụng vào xây dựng đường lối, chính sách của Đảng; thông qua đường lối, chính sách mà lý luận đi vào đời sống xã hội. Thực tiễn là nơi kiểm nghiệm chân lý; từ những kết quả phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận trên từng lĩnh vực cụ thể. Nếu vận dụng lý luận đúng đắn, sáng tạo và phát triển thì nhất định sẽ có kết quả thực tiễn tốt và ngược lại.

Thứ tư, đất nước phát triển mạnh mẽ, đúng định hướng; nhân dân có cuộc sống ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; Tổ quốc được bảo vệ vững chắc; Việt Nam ngày càng có vị thế quốc tế cao.

Thực tiễn luôn luôn là căn cứ kiểm nghiệm độ đúng - sai của lý luận. Lịch sử hình thành và phát triển của bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng khẳng định tính nghiêm ngặt của thước đo thực tiễn. Công cuộc đổi mới trong gần 38 năm qua ở Việt Nam cho thấy, chỉ khi nào gắn với “cây đời” thực tiễn và góp phần làm cho “cây đời” thực tiễn đơm hoa, kết trái thì lý luận mới không còn là “màu xám”, mà luôn xanh tươi, phát triển cùng cuộc sống. Đối với Việt Nam trước mắt và đến giữa thế kỷ XXI, thách thức về phát triển vẫn là thách thức lớn nhất, sống còn nhất. Với tất cả những thành tựu đã đạt được, hiện nay, Việt Nam cách các nước trong khu vực và trên thế giới từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 - 50 năm về trình độ phát triển. Trong những năm tới, đất nước cần có một hệ thống chính sách tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; cho nên, mọi sự vận dụng và phát triển lý luận làm cơ sở cho quá trình xây dựng đường lối, chính sách phải thiết thực, cụ thể và được thực hiện đánh giá kết quả ở từng mục tiêu.

Thứ năm, cán bộ, đảng viên và nhân dân phải hiểu được và đồng tình với sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.

Hoạt động lý luận cách mạng không có mục đích tự thân, mà là để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bởi vậy, nếu sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh không đến được cán bộ, đảng viên và nhân dân, được họ hiểu, đồng tình, chấp nhận và hành động theo thì tất cả đều trở nên vô nghĩa. Muốn vậy, nội dung vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được tuyên truyền, giáo dục một cách hiệu quả; phải được các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo; các cấp chính quyền quán triệt, thể chế hóa thành luật, chính sách và nghiêm túc thực hiện. Nhân dân và cán bộ, đảng viên thông qua các tổ chức chính trị - xã hội và các thiết chế khác phải thường xuyên giám sát quá trình này, góp phần bảo đảm lý luận đúng đắn được đưa vào cuộc sống.

Đánh giá chất lượng, hiệu quả vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số lĩnh vực chủ yếu hiện nay

Một là, trong phát triển kinh tế.

Đổi mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế đã tạo nên một cuộc cách mạng trong nhận thức lý luận được vận dụng vào đường lối, chính sách, đã làm chuyển biến ngoạn mục sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ở thập niên đầu tiên của công cuộc đổi mới. Đơn cử, việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của nước ta để khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Hiện nay, chế độ sở hữu đất đai được quy định tại Điều 53, Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 4, Luật Đất đai năm 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”(4). Cùng với đó, Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu, vận dụng, phát triển để xây dựng Hiến pháp, luật pháp về sở hữu đất đai. Theo đó, quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân, song quyền sở hữu đó được tách thành ba quyền chính là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đất và quyền định đoạt. Trong ba quyền đó, quyền chiếm hữu đất đai thuộc về toàn dân, do nhà nước đại diện; trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước sẽ thay mặt nhân dân thu khoản địa tô của người sử dụng đất đai để phục vụ trở lại toàn dân. Mặt khác, với quyền này, Nhà nước có quyền thu hồi đất đai đã giao cho các chủ sử dụng đất vào bất cứ lúc nào, khi Nhà nước cần sử dụng đất đai cho mục đích công cộng, quốc phòng - an ninh. Hai quyền còn lại, quyền sử dụng đất và quyền định đoạt, Nhà nước có thể giao cho các cá nhân và tổ chức thực hiện. Chính vì tách quyền sở hữu đất đai thành các quyền như vậy, nên cá nhân, tổ chức có thể mua, bán, cho thuê quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; tháo gỡ ách tắc vấn đề lý luận có hay không có thị trường hàng hóa đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự vận dụng, phát triển hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Đảng ta vào công cuộc đổi mới. Từ phát triển lý luận này, những quy định pháp luật về đất đai ở nước ta gần đây đều hướng vào cải cách chính sách đất đai để bảo đảm quyền của người sử dụng đất, phù hợp với quá trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16-6-2022, “Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”. Đây chính là cơ sở chính trị để Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi năm 2024).

Hai là, trong lĩnh vực văn hóa - xã hội.

Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đặt vấn đề con người lên vị trí hàng đầu và lấy hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết Đại hội  XIII của Đảng chỉ rõ: “Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(5). Đặt vấn đề hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, đúng như chủ nghĩa Mác coi vấn đề giải phóng con người là mục tiêu lâu dài mà phong trào cộng sản hướng tới. Tuy nhiên, muốn giải quyết vấn đề xã hội, vấn đề con người nhất thiết phải có cơ sở vật chất được tạo ra trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải quyết. Từ đó, lấy phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, làm cơ sở chính trị, kinh tế để giải quyết vấn đề xã hội, vấn đề con người, như thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, trợ cấp xã hội cho các bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội; thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, cấp bảo hiểm y tế cho người nghèo, mở rộng mạng lưới y tế cộng đồng bảo vệ sức khỏe cho các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Mặt khác, Đảng ta đề cao quan điểm xây dựng thể chế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội phải tạo ra “bình đẳng về cơ hội” cho mọi người cùng phát triển, thay thế quan điểm bình đẳng phân phối theo lối “cào bằng” như giai đoạn trước đây; đồng thời, trong các cộng đồng dân cư, khuyến khích phát huy các giá trị truyền thống tương thân, tương ái; “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”… Về mặt văn hóa, nhấn mạnh giáo dục bắt buộc cho học sinh đến bậc trung học cơ sở; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển; đấu tranh chống tác hại của các loại văn hóa xấu độc, trái với thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa của nhân dân ta.

Ba là, trong công tác xây dựng Đảng.

Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các mặt của công tác xây dựng Đảng. Ngay từ buổi đầu thành lập đến nay, Đảng ta chưa bao giờ xa rời nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản. Dù cách diễn đạt về tính tiên phong của Đảng trong điều kiện chưa có chính quyền hoặc khi đã trở thành Đảng cầm quyền có khác nhau nhất định, song bản chất giai cấp của Đảng tuyệt nhiên không thay đổi. Điều lệ vắn tắt thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, đầu năm 1930, nêu rõ tôn chỉ, mục đích của Đảng: “Đảng Cộng Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(6).

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày Báo cáo chính trị tại Đại hội có đoạn: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(7). Có thể nói, đây là sự vận dụng hết sức sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về bản chất giai cấp công nhân của Đảng vào cách mạng Việt Nam.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006), sau hai mươi năm đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trải qua bốn nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta nhận thức sâu sắc về tính tiền phong của Đảng, mối quan hệ giữa đội tiền phong với giai cấp, nhân dân, dân tộc và bản chất của Đảng. Đại hội X của Đảng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”(8). Đến Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(9).

Bốn là, trong xây dựng hệ thống chính trị.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ ra rằng, sau khi cách mạng vô sản thành công ở mỗi nước, chính quyền nhà nước thuộc về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kể từ đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này, giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản, mà trong đó, nhà nước không có gì khác hơn là nhà nước chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là một hình thức nhà nước của nhà nước xã hội chủ nghĩa; nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mới xuất hiện trên vũ đài lịch sử, khác hẳn về bản chất so với tất cả các kiểu nhà nước do giai cấp hữu sản đã từng thiết lập trong lịch sử.

Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Về bản chất, đây là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Về chức năng, cũng như các kiểu nhà nước nói chung, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) có hai chức năng cơ bản, chức năng chính trị và chức năng công quyền. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp do ba cơ quan nhà nước được phân công phối hợp thực hiện. Trong hình thức nhà nước chuyên chính vô sản và sau này chuyển sang thực hiện hình thức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chúng ta đều không tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập, mà tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước chưa hề có trong lý luận xây dựng nhà nước nói chung, nhà nước chuyên chính vô sản nói riêng. Khi chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng ta đã học hỏi, kế thừa và phát triển những thành tựu xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản ở Việt Nam cũng như ở các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa giai đoạn trước đó.

Về xây dựng hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khái niệm hệ thống chính trị ở nước ta được sử dụng lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, trước đó chúng ta sử dụng khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản. Khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có nội hàm là một hình thức tổ chức chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có các tổ chức cấu thành là nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng cộng sản. Hệ thống này thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ này gắn bó chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau, trong đó, nhiệm vụ xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ căn bản nhất, xuyên suốt trong suốt thời kỳ quá độ.

Trong quá trình đổi mới, căn cứ vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta nhận thấy, trong đời sống chính trị nước ta, ngoài hệ thống chuyên chính vô sản, Việt Nam còn có các tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn khác, giữ vai trò rất quan trọng trong tiến trình cách mạng, được Đảng ta tổ chức, lãnh đạo suốt từ khi thành lập Đảng, thành lập nhà nước cho đến nay, như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam… Song, những tổ chức này lại không nằm trong khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản. Vì vậy, khi chuyển sang sử dụng khái niệm hệ thống chính trị đã phản ánh thực tiễn đầy đủ hơn, như: 1- Khái niệm đó bao quát được các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội chủ yếu cấu thành đời sống chính trị của đất nước; 2- Nhiều nước trên thế giới sử dụng khái niệm này, mặc dù nhận thức về khái niệm hệ thống chính trị ở các nước có thể không hoàn toàn giống như chúng ta hiểu; 3- Sử dụng khái niệm hệ thống chính trị không làm phương hại những nhiệm vụ chiến lược mà khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản trước đó chúng ta vẫn sử dụng; đồng thời, tránh để các thế lực thù địch lợi dụng khái niệm chuyên chính vô sản bôi nhọ sự nghiệp cách mạng sáng ngời chính nghĩa của nhân dân ta. Đây có thể được xem là một trong những ví dụ về việc Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới./.

-----------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 36, tr. 796
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Hà Nội, 1980, t. 20, tr. 103
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 231
(4) Điều 4 Luật Đất đai năm 2013
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173
(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 7
(7) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 38
(8) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 3-4
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 111