Xây dựng quân đội của dân, do dân và vì dân
TCCSĐT - Hơn nửa thế kỷ qua, Quân đội nhân dân Việt Nam mãi mãi là Quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Quân đội nhân dân Việt Nam quyết xứng đáng là công cụ đáng tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Quân đội ta do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, được Nhà nước tập trung xây dựng, được nhân dân nuôi dưỡng, sát cánh cùng chiến đấu. Hơn 65 năm chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển và trưởng thành, càng đánh càng mạnh, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và trở thành một quân đội có đầy đủ sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Quân đội ta, ngay từ lúc khai sinh đã khẳng định mục tiêu và phương châm hành động là “Từ nhân dân mà ra. Do nhân dân nuôi dưỡng. Vì nhân dân mà chiến đấu” nghĩa là “của dân, do dân, vì dân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mầm mống lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân đã ra đời vào những năm 1930 - 1931 trong phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh - Đội tự vệ Đỏ, Đội tự vệ Công nông, nhằm chiến đấu chống quân thù khủng bố, đàn áp; bảo vệ quần chúng và phong trào cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng và làm công tác vận động quần chúng. Những năm 1939 - 1945, thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, các tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân đã ra đời như Đội du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Đội quân du kích Ba Tơ,… Ngày 22-12-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nay trở thành ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - Ngày hội Quốc phòng toàn dân.
Giải phóng quân và các đội tự vệ, đội du kích ở địa phương cùng với nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đập tan chính quyền thực dân phong kiến phản động, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Quân đội nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân được nhân dân cùng sát cánh chiến đấu đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi với trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, giải phóng nửa đất nước, tạo điều kiện đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân cùng với nhân dân cả nước đập tan huyền thoại về “sức mạnh không lực Hoa Kỳ” trong cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Kết thúc thắng lợi rất oanh liệt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta (1954- 1975) bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những năm tiếp theo, lực lượng vũ trang nhân dân cùng với toàn dân đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, góp phần tích cực và bảo vệ công cuộc lao động hoà bình, ổn định đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh bảo vệ Tổ quốc. Cùng với những chiến công oanh liệt, Quân đội nhân dân Việt Nam mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như những biểu hiện sáng ngời về một quân đội của dân, do dân, vì nhân dân mà chiến đấu, Quân đội nhân dân đã ghi vào lịch sử dân tộc những bài học vô giá. Qua học tập tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, bài viết xin đề cập mấy vấn về xây dựng quân đội của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng của Người.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục lực lượng vũ trang cách mạng. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng, trưởng thành, và phát triển theo những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của Đảng - nguyên lý xây dựng quân đội mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đó là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta cùng với toàn dân giành chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ mới: chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân hy sinh chiến đấu, thực hiện khát vọng của nhân dân, của dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, làm cho “nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, với ba chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Đường lối cách mạng, đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của quân đội ta. Đi theo ngọn cờ đó, từ nhỏ đến lớn, từ yếu thành mạnh, càng đánh càng mạnh và lập nên những chiến công rực rỡ. Rõ ràng, sự trưởng thành và sức mạnh chiến thắng của Quân đội nhân dân chỉ có thể bắt nguồn trước hết từ sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, điều cơ bản quyết định là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân, giữ vững và nâng cao một bước bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội nhân dân. Đường lối quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng nêu bật địa vị lãnh đạo của giai cấp công nhân, quyền làm chủ của nhân dân - cái gốc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân luôn nắm vững chức năng vũ trang bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở nước ta, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là mục tiêu chiến đấu cơ bản lâu dài, bất biến của Quân đội nhân dân. Sự phát triển mới về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của Quân đội nhân dân còn là cùng với toàn dân củng cố hoà bình, bảo vệ công cuộc lao động, xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt, cùng toàn dân làm thất bại mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, đẩy lùi, ngăn chặn chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, xung đột vũ trang cũng như nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng làm nòng cốt cho toàn dân đánh thắng chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch.
Hai là, quân đội ta đã xây dựng, trưởng thành và chiến thắng nhờ vận dụng đúng đắn nguyên lý vũ trang toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “ Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”. Người luôn giáo dục cho lực lượng vũ trang nhân dân gắn bó với nhân dân, “bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”. Đây cũng là sự vận dụng sáng tạo trong tư tưởng quân sự yêu nước của dân tộc ta “ trăm họ là binh”; là sự vận dụng thành công quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong chiến tranh cách mạng. Sáu mươi lăm năm qua, được xây dựng theo nguyên lý vũ trang toàn dân, quân đội ta thực sự là quân đội của dân, do dân và vì dân. Quân đội ta sinh thành từ lực lượng chính trị của quần chúng, xây dựng và phát triển trên cơ sở lực lượng hùng hậu của nhân dân, dựa chắc vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của chế độ mới. Mô hình tổ chức ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc là loại hình tổ chức tiêu biểu cho nguyên lý vũ trang toàn dân. Đó là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân do bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương hợp thành, với sức mạnh chiến đấu của dân quân tự vệ. Với tổ chức đó, lực lượng ba thứ quân, Quân đội nhân dân đã thực hiện xuất sắc vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, được nhân dân cùng tham gia đánh giặc với mọi vũ khí có trong tay, chăm lo, nuôi dưỡng, che chở và đùm bọc tạo nên sức mạnh vô địch, đánh thắng mọi kẻ thù.
Vận dụng quan điểm vũ trang toàn dân trong những điều kiện mới, chúng ta cần nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện tổ chức Quân đội nhân dân, nhất là bộ đội chủ lực, theo hướng “xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Xây dựng Quân đội nhân dân phù hợp với thời bình hiện nay là làm cho quân đội ta phải có sức mạnh hơn bao giờ hết để hoàn thành các nhiệm vụ trong giai đoạn mới, duy trì cục diện hoà bình, ổn định, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, không để xảy ra chiến tranh. Đương nhiên, đó cũng là tổ chức Quân đội nhân dân sẵn sàng cùng toàn dân đánh bại mọi loại hình chiến tranh xâm lược của địch. Trên cơ sở tổ chức ba thứ quân phù hợp với tình hình mới, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, nhất là bộ đội chủ lực. Coi lực lượng thường trực và lực lượng dự bị là hai lực lượng cơ bản để xây dựng, phát triển Quân đội nhân dân. Hoàn thiện hệ thống lãnh đạo, quản lý, chỉ huy Quân đội nhân dân theo hướng tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, tinh giản và hiện đại hoá hệ thống chỉ huy. Tổ chức các quân chủng, binh chủng, binh đoàn, theo cơ cấu, biên chế hợp lý, mạnh, gọn, nhẹ; tăng cường sức mạnh chiến đấu cho quân chủng phòng không - không quân và hải quân; nâng cao sức đột kích, sức cơ động và hoả lực cho lục quân. Nghiên cứu các loại hình tổ chức bộ đội, tổ chức lực lượng cho phù hợp với các đối tượng tác chiến cụ thể, phù hợp với các chiến trường có các loại hình khác nhau. Cải tiến, nâng cao hiệu lực hệ thống vũ khí trang bị kỹ thuật của Quân đội nhân dân theo hướng sử dụng, giữ tốt vũ khí, phương tiện hiện có, tích cực sản xuất những loại vũ khí, kỹ thuật ta có khả năng, cải tiến, hiện đại hoá một số trang bị, ... Từng bước xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng trên cơ sở công nghiệp hoá; hiện đại hoá đất nước. Đổi mới căn bản chính sách xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật về xây dựng Quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng toàn dân, về bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thể chế hoá đường lối, quan điểm, Nghị quyết của Đảng về xây dựng quân đội; ban hành về mặt nhà nước hệ thống điều lệnh, điều lệ về các hoạt động của Quân đội nhân dân, đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quân đội; giải quyết tốt nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân trong Nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo.
Ba là, quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân. Quân đội nhân dân tiêu biểu cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam có mấy ngàn năm văn hiến, đất không rộng, kinh tế đang phát triển, toàn dân đoàn kết một lòng, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, những đội quân xâm lược nhà nghề, có số lượng đông, được trang bị nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và dựa vào một tiềm lực quân sự mạnh. Trên cơ sở nâng cao và phát triển kinh nghiệm đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng của quân và dân ta hơn 65 năm qua, xây dựng, hoàn thiện nghệ thuật quân sự của Quân đội nhân dân trong giai đoạn mới. Đó là nghệ thuật quân sự Việt Nam bảo vệ Tổ quốc theo quan điểm “ toàn dân đánh giặc”, đánh giặc bằng sức mạnh tổng hợp, lấy “ đại nghĩa thắng hùng tàn”, “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, chống các hoạt động vũ trang phản cách mạng, chống lấn chiếm biên giới trên đất liền, trên biển, đảo,… Nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc chống chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch có sử dụng “vũ khí kỹ thuật cao”, “ vũ khí tinh khôn”. Nghiên cứu nghệ thuật đánh địch từ xa nhằm ngăn chặn, vô hiệu hoá các cuộc tiến công của địch bằng các phương tiện vũ khí công nghệ cao. Phát triển và hoàn thiện nghệ thuật tác chiến phòng không và tác chiến trên biển đảo trên cơ sở vận dụng những kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh đã qua. Coi trọng việc nghiên cứu xác định những đặc điểm của các loại hình rừng núi, đồng bằng và ven biển cùng chiến trường trên biển, trên không để xác định các loại hình tác chiến chống đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, chống bao vây, phong tỏa, phòng thủ giữ đảo, quần đảo và những khu vực quan trọng trên đất liền. Phát triển nghệ thuật tác chiến điện tử, đấu tranh sinh học; nghệ thuật nghi binh, ngụy trang, lừa địch khi kẻ thù xâm lược sử dụng ngày càng nhiều phương tiện thông tin, trinh sát điện tử hiện đại. Nâng cao kinh nghiệm về sử dụng kết hợp các loại vũ khí, từ thô sơ, tương đối hiện đại đến hiện đại.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ của Quân đội nhân dân theo hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đội ngũ cán bộ của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, của Quân đội nhân dân nói riêng được xây dựng, phát triển theo đúng phương hướng, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, hết lòng thương yêu chiến sĩ, có tài thao lược và đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao cho. Đó là đội ngũ cán bộ được thử thách, trưởng thành trong cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài của dân tộc, nắm vững và thực hiện thắng lợi tư tưởng quân sự, đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, truyền thống quân sự yêu nước của dân tộc. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ đã ra sức rèn luyện nhân cách người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo của Quân đội nhân dân: Trí, dũng, liêm, trung. Cán bộ các cấp trong Quân đội nhân dân không ngừng hoàn thiện tri thức khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục chiến sĩ. Chính đội ngũ cán bộ quân sự do Đảng và Nhà nước ta đào tạo là nòng cốt tạo nên sức mạnh chiến đấu vô địch của Quân đội nhân dân. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong giai đoạn mới, theo chúng tôi, cần làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
- Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ sĩ quan với đội ngũ đảng viên trong Quân đội nhân dân, bảo đảm chất lượng chính trị cao. Đội ngũ sĩ quan được xây dựng chuyên sâu quân sự, chính trị - quân sự và kỹ thuật quân sự theo ba cấp (theo hệ thống lãnh đạo, quản lý, chỉ huy): sơ cấp, trung cấp, cao cấp (hoặc cấp chiến thuật, cấp chiến dịch, cấp chiến lược).
- Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ sĩ quan có lập trường của giai cấp công nhân, yêu nước, thương dân, trung thành tuyệt đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, với Đảng, với Nhà nước, chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì quyền lợi cơ bản của nhân dân, của dân tộc. Trang bị cho đội ngũ sĩ quan của Quân đội nhân dân nắm vững đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng; những kiến thức quân sự, quốc phòng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; tài thao lược trong lãnh đạo, quản lý, chỉ huy quân đội, cùng những tri thức quân sự và quốc phòng phát triển mới. Nâng cao kiến thức về các mặt kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, nhân văn, pháp luật …
- Xây dựng, đào tạo đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong lực lượng vũ trang nhân dân không phải là việc riêng của quân đội. Đó là trách nhiệm chung của Đảng và Nhà nước. Vì thế, xây dựng, đào tạo đội ngũ sĩ cán bộ quân đội cần được Nhà nước xác định theo quy hoạch chiến lược chung; kết hợp chặt chẽ với hệ thống giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước trong việc tạo nguồn, nội dung chương trình, thời gian đào tạo ở cả trong và ngoài nước./.
Sản xuất công nghiệp  (11/01/2010)
Kết quả điều tra dân số, lao động năm 2009  (10/01/2010)
Năm 2009 số thuê bao điện thoại và Internet phát triển mạnh  (10/01/2010)
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009  (10/01/2010)
Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2009 (tăng/giảm) so với năm trước (%)  (10/01/2010)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên