TCCS - Để hoàn thành mục tiêu phát triển đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đổi mới, nâng cao hiệu quả nền quản trị quốc gia là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, trong đó phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Cùng với đó, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, dân chủ, hiện đại, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội là tiền đề, cơ sở và điều kiện quan trọng để tiến hành công cuộc đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia.

Dân chủ và pháp luật trong nền quản trị quốc gia

Dân chủ và nền quản trị quốc gia

“Nhà nước, thị trường và xã hội là ba thành tố có quan hệ tương hỗ trong quản lý phát triển xã hội”(1). Trong nền quản trị quốc gia, ba thành tố này có ba chủ thể tương ứng đại diện: Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Quản trị quốc gia là một mô thức vận hành, quản lý phát triển xã hội văn minh, tiến bộ, trong đó dân chủ là cơ sở thiết yếu để duy trì, củng cố, phát triển mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Nền quản trị quốc gia chỉ được hình thành, thiết lập và phát huy hiệu quả ở những quốc gia dân chủ, văn minh. Với những quốc gia khác, nền quản trị quốc gia được hình thành, thiết lập phải thông qua tiến trình dân chủ hóa: “Quá trình chuyển đổi này được thực hiện thông qua việc tổ chức tổng tuyển cử, thiết lập nền dân chủ, bảo đảm các quyền cơ bản của con người, minh bạch hóa hoạt động nhà nước…”(2).

Nhà nước là chủ thể quan trọng, đứng ở vị trí trung tâm của nền quản trị quốc gia, trong đó dân chủ là cơ sở cốt yếu, quyết định cách thức tổ chức, phương pháp quản trị, hiệu quả hoạt động của tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt này. Bản chất dân chủ của nhà nước được thể hiện trên nhiều góc độ khác nhau. Chính thể cộng hòa dân chủ, với cơ quan quyền lực nhà nước được cử tri bầu ra, là hình thức tương thích, phù hợp nhất với đặc điểm của nền quản trị quốc gia. Một thuộc tính khác của chế độ dân chủ là bảo đảm thực thi các quyền cơ bản, phổ quát của con người. Dân chủ “được ràng buộc bởi cơ chế đảm bảo các quyền con người”(3). Cả hai hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện đều là cơ sở để bảo đảm thực thi các quyền tự do cơ bản của công dân.

Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí tiếp xúc cử tri Thành phố Hồ Chí Minh trước Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV _Ảnh: TTXVN

Trong lĩnh vực kinh tế, dân chủ được thể hiện thông qua những quy định, chế định của hiến pháp, đồng thời thông qua chủ trương, chính sách phát triển kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bình đẳng địa vị pháp lý, cạnh tranh lành mạnh… Với năng lực cạnh tranh, quản trị vượt trội và khả năng tối ưu hóa việc sử dụng các loại nguồn lực, doanh nghiệp tư nhân là một trong những chủ thể trên thị trường trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội. Dân chủ, tự do về kinh tế là điều kiện cơ bản để thiết lập, vận hành nền quản trị quốc gia.

Dân chủ về mặt xã hội được thể hiện thông qua việc bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ, tự do cơ bản của con người, theo nguyên tắc: “Thiểu số phục tùng đa số nhưng tôn trọng quyền của thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội”(4). Bên cạnh cơ quan dân cử thực hiện chức năng đại diện cho nhân dân, quyền tự do, dân chủ của công dân được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội với các hoạt động, như: Tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị với các cơ quan chức năng, kiểm soát từ bên ngoài đối với quyền lực nhà nước…

Pháp luật và nền quản trị quốc gia

Trong nhiều đạo luật khác nhau, pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về tổ chức, hoạt động của các chủ thể quản trị quốc gia, như: Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước; việc thành lập, mô hình tổ chức, nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp; điều kiện thành lập, mô hình tổ chức, hoạt động của hội. Những quy định này là cơ sở để xác lập mối quan hệ pháp lý giữa các chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội, trong đó có quyền và nghĩa vụ, sự phối hợp, tương tác. Pháp luật đồng thời là công cụ, phương tiện để xác lập nguyên tắc, thể chế, quy trình, cơ chế quản trị quốc gia. Hơn nữa, với những quy định mang tính bắt buộc, pháp luật tác động mạnh mẽ đến với việc nâng cao năng lực quản trị nội bộ của từng chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Việc nâng cao năng lực quản trị của các chủ thể có ảnh hưởng và tác dụng trực tiếp đối với việc nâng cao năng lực, hiệu quả nền quản trị quốc gia.

Thượng tôn pháp luật là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức. Theo đó, các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm tuân thủ quy định của Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm sự liêm chính, những giá trị đạo đức, pháp quyền, không thiên vị, vụ lợi khi thực hiện những hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công, tuyển dụng, phân bổ nguồn lực công, xử lý hành vi vi phạm pháp luật... Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước còn có trách nhiệm hợp tác, tiếp thu ý kiến đóng góp của cá nhân, tổ chức đối với các dự thảo luật, tổ chức thực hiện đối thoại công - tư, triển khai thực hiện những dự án phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo theo hình thức hợp tác công - tư (PPP).

Pháp luật có vai trò định hướng hoạt động của doanh nghiệp theo những mục tiêu cơ bản của quản trị quốc gia. Với những quy định về điều kiện, thủ tục, quy trình, cho phép thực hiện…, pháp luật tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh theo đúng mục tiêu, xu hướng phát triển của xã hội. Quy định về cơ cấu, mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động đối với từng loại hình doanh nghiệp có tác dụng nâng cao hiệu quả quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật là cơ sở để nâng cao ý thức của doanh nhân, định hướng hoạt động của doanh nghiệp theo đúng chuẩn mực xã hội, cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ đạo đức, văn hóa kinh doanh… Dưới góc độ quản trị quốc gia, pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hợp tác PPP giữa Nhà nước và doanh nghiệp, cũng như sự phối hợp của doanh nghiệp với tổ chức xã hội để thực hiện những công việc thuộc chức năng của thị trường và xã hội.

Đối với các tổ chức xã hội, vai trò của pháp luật được thể hiện qua những quy định về quyền lập hội, quy chế hoạt động của tổ chức xã hội. Pháp luật là cơ sở để tổ chức xã hội lựa chọn mô hình, xác định tôn chỉ, mục đích phù hợp với văn hóa, đạo đức, truyền thống. Thông qua những quy định, hướng dẫn cụ thể trong một số lĩnh vực, tổ chức xã hội có thể tham gia, phối hợp với cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thuộc lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp. Các tổ chức xã hội có quyền đóng góp ý kiến tư vấn, phản biện chính sách, kiến nghị với các cơ quan nhà nước hữu quan.

Vai trò của dân chủ và pháp luật trong quá trình đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia ở Việt Nam

Dân chủ trong quá trình đổi mới, xây dựng nền quản trị quốc gia

“Quản trị quốc gia” là khái niệm do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra năm 1989”(5). Dân chủ là yếu tố có ảnh hưởng toàn diện, giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với quá trình đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia. Do những đặc điểm kinh tế - xã hội, trình độ phát triển khác nhau nên: “Có nước, dân chủ hóa bắt đầu từ chính trị, có nước từ kinh tế”(6). Quá trình xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia ở nước ta được tiến hành dưới sự tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới đất nước, trong đó tiến trình dân chủ hóa về kinh tế, chính trị, xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng. “Đại hội VI của Đảng đã tạo ra bước ngoặt trong tiến trình dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống đất nước”(7). Để khắc phục những điểm còn trùng lặp, chưa hợp lý giữa vai trò, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và chức năng quản lý của Nhà nước, Đại hội VI của Đảng đề ra chủ trương thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Cùng với đó, Nhà nước thực hiện nhiều chương trình cải cách hành chính nhằm chuyển đổi từ nền hành chính truyền thống sang nền hành chính dân chủ, hiện đại, lấy người dân làm trung tâm. Kỳ họp và các hoạt động của đại biểu Quốc hội cũng từng bước được đổi mới. Trách nhiệm của Quốc hội trong việc bảo vệ các quyền do nhân dân ủy thác ngày càng được nâng cao. Các quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo đảm. Tình trạng thiếu dân chủ, dân chủ hình thức trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội từng bước được khắc phục...

Bước vào thời kỳ đổi mới, nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã mang đến cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sức sống mới. Sau gần 40 năm đổi mới, dân chủ được nâng lên ở những nấc thang cao hơn, thực chất hơn: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Các quyền dân chủ cơ bản của công dân được quy định, bảo vệ bằng Hiến pháp và được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp lập pháp, hành chính và tư pháp. Quyền giám sát của nhân dân cũng được thực hiện chặt chẽ, thực chất hơn thông qua nhiều thiết chế, cơ chế khác nhau. Đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại cho đất nước nhiều kết quả, thành tựu nổi bật, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia dân chủ, tiến bộ, có tiềm lực kinh tế và vị thế chính trị quan trọng trong khu vực ASEAN và trên thế giới.

Như vậy, có thể khẳng định, trong suốt gần 40 năm đổi mới, dân chủ là yếu tố giữ vai trò quan trọng, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia.

Vai trò của pháp luật đối với quá trình xây dựng nền quản trị quốc gia

Vai trò của pháp luật trong quá trình đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia được thể hiện trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực khác nhau như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, trong đó kinh tế là lĩnh vực nổi bật nhất. Với quyết tâm đổi mới, Quốc hội Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật, pháp lệnh về lĩnh vực này, như: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật Công ty năm 1990… Những đạo luật này từng bước thay đổi cách thức quản lý kinh tế lạc hậu của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung trước đây, từ đó chuyển sang thực hiện phương pháp mới: Quản lý kinh tế bằng pháp luật, bảo đảm quyền, địa vị pháp lý của các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, như: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh... Những đạo luật trên đây là cơ sở, khung pháp lý bảo đảm cho việc phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ; mở rộng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Từ đó, góp phần tích cực vào việc nâng cao năng lực quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia, vai trò của pháp luật được thể hiện qua việc tạo lập căn cứ pháp lý để tiến hành đổi mới, nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, hay nói cách khác là nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hiến pháp năm 1992 là “đạo luật gốc” cho quá trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước thời kỳ đổi mới. Dựa trên luật cơ bản này, Quốc hội đã sửa đổi, ban hành nhiều đạo luật liên quan đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Công chức, Luật Viên chức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước… Những đạo luật này là cơ sở pháp lý để tiến hành kiện toàn, cải cách bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối trung gian, tiết kiệm chi phí hành chính, nâng cao năng lực phản ứng chính sách và năng lực quản trị của Nhà nước - chủ thể giữ vị trí trung tâm của nền quản trị quốc gia.

Để phát huy dân chủ, bảo đảm những quyền cơ bản của công dân, Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật, như: Luật Báo chí, Luật Cư trú, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở… Cùng với những quy định nhằm bảo đảm thực thi các quyền cơ bản của con người, pháp luật còn là cơ sở để thành lập, triển khai hoạt động của tổ chức xã hội. Theo quy định của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP, tổ chức xã hội có quyền tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định, cung cấp dịch vụ công, dạy nghề, truyền nghề. Tổ chức xã hội đặc thù có thể được cấp kinh phí, biên chế hoạt động. Các tổ chức xã hội có quyền đóng góp ý kiến tư vấn, phản biện chính sách, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề hữu quan. Những quy định này góp phần quan trọng vào việc phát triển, mở rộng hoạt động của tổ chức xã hội và phát huy năng lực quản trị nội bộ, cũng như năng lực phối hợp với Nhà nước và doanh nghiệp trong hoạt động quản trị quốc gia của tổ chức xã hội.

Một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục

Thực hành dân chủ, bảo đảm nguyên tắc dân chủ: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là cơ sở, tiền đề về dân chủ để tiến hành đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, “thực tiễn cho thấy, bước chuyển từ nhận thức dân chủ đến thực hành dân chủ ở nước ta cũng còn độ trễ”(8). Một số cơ quan, tổ chức còn để xảy ra tình trạng thiếu dân chủ, dân chủ hình thức… Trách nhiệm giải trình thể hiện sự minh bạch có lúc, có nơi chưa được các cơ quan nhà nước quan tâm, thực hiện nghiêm túc, cầu thị. Việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân - còn một số bất cập. “Vai trò của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc thực hiện quyền hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử vẫn chưa được thực hiện tốt”(9). Chất lượng và hoạt động của một số đại biểu Quốc hội chưa đáp ứng được niềm tin, nguyện vọng của cử tri. Việc tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân với một số dự luật chưa bảo đảm tính khách quan, có khi còn mang tính hình thức. Vì vậy, một số đạo luật có tính khả thi không cao, không đạt kết quả như kỳ vọng, không đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và mục tiêu phát triển đất nước...

Trong nền kinh tế hiện nay, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Tuy nhiên, do thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, nên “sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, trên thực tế vẫn chưa được đảm bảo”(10). Doanh nghiệp tư nhân còn gặp không ít trở ngại, rào cản phi chính thức khi thực hiện thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, thế chấp, vay vốn.... So với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có ít cơ hội hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân sách… Bên cạnh đó, tiềm lực phát triển của doanh nghiệp tư nhân chưa được khai thác hết, quy mô hoạt động còn nhỏ lẻ… Vì lợi nhuận nên không ít doanh nghiệp bất chấp, xem thường luật pháp, đạo đức, văn hóa kinh doanh, gian dối, thu lời bất chính… Những hạn chế, tồn tại trên ảnh hưởng đến năng lực tham gia quản trị quốc gia của doanh nghiệp.

Pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm hoạt động của tổ chức xã hội. Song, nhiều vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các hội quần chúng còn thiếu quy định pháp lý cụ thể; “cơ chế đối thoại và hợp tác giữa các hội với Nhà nước và khu vực tư nhân”(11) chưa được quy định, xác lập rõ ràng, tạo điều kiện thúc đẩy sự phối hợp giữa các chủ thể quản trị, từ đó nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia…

Một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của dân chủ và pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia

Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của tất cả các chủ thể quản trị quốc gia và toàn xã hội về vị trí, vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện mục tiêu đổi mới, hoàn thiện nền quản trị quốc gia; đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức thực hiện, tăng cường thực hành dân chủ; bảo đảm thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; khắc phục tình trạng thiếu dân chủ, dân chủ hình thức, bảo đảm sự tham gia của nhân dân trong quá trình thảo luận và quyết định những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích và cuộc sống của nhân dân.

Thứ hai, đổi mới cách thức tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội đáp ứng yêu cầu, mục tiêu thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; sửa đổi, điều chỉnh cách thức, quy trình bầu cử, ứng cử, nâng cao tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số, đại biểu hoạt động chuyên trách; tăng cường hoạt động chất vấn, thực hiện trách nhiệm giải trình của người đứng đầu các cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan tư pháp trước diễn đàn Quốc hội; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, thực hiện quy trình xây dựng, ban hành pháp luật dân chủ, tiến bộ và hiện đại; bảo đảm sự tham gia, đóng góp ý kiến của nhân dân, tổ chức và doanh nghiệp đối với các dự thảo luật. 

Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với mục tiêu, xu thế dân chủ hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm sự đồng bộ, tính hợp hiến, thống nhất, hiệu quả, khả thi, dân chủ, minh bạch của hệ thống pháp luật; xây dựng, xác lập cơ chế, bảo đảm thực hiện những quyền tự do dân chủ hợp pháp, hợp hiến của nhân dân.

Thứ tư, đẩy mạnh cải cách thể chế, thủ tục hành chính, bảo đảm tính công khai, minh bạch; bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc tham gia đấu thầu, tiếp cận nguồn lực công; thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tiếp dân; xem xét, giải quyết thấu đáo đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tăng cường đối thoại công - tư; tiếp thu cầu thị ý kiến, kiến nghị của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp; đẩy mạnh phối hợp công - tư trong việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Võ Trọng Hải chủ trì phiên tiếp công dân định kỳ_Nguồn: baohatinh.vn

Thứ năm, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; phát huy vai trò, nâng cao vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, hỗ trợ nhân dân thực hiện dân chủ, quyền cơ bản; tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị, phản ánh chính xác, đầy đủ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa các thành phần kinh tế; tăng cường sự phối hợp bình đẳng, tương tác giữa doanh nghiệp với Nhà nước và các tổ chức xã hội; mở rộng sự tham gia đề xuất, phản biện chính sách, đối thoại công - tư, đóng góp ý kiến của doanh nghiệp trong việc xây dựng chính sách, pháp luật; phổ biến, tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của doanh nhân; đấu tranh, phòng, chống hành vi kinh doanh gian dối, không trung thực, gian lận thương mại…

Thứ bảy, đổi mới tổ chức, hoạt động, phát huy trình độ, năng lực chuyên môn, trách nhiệm, vai trò, nâng cao năng lực phản biện, giám sát, vận động chính sách của các tổ chức xã hội; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp lý về vai trò, vị trí của tổ chức xã hội; quy định rõ ràng, cụ thể về nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của tổ chức xã hội; phổ biến, tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật của các hội viên; nâng cao năng lực tham gia phối hợp của tổ chức xã hội với các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp./.

--------------------------

(1) Xem: Đoàn Minh Huấn: “Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội - Những vấn đề đặt ra cho phát triển xã hội số theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, ngày 12-04-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/moi-quan-he-giua-nha-nuoc-thi-truong-va-xa-hoi-trong-quan-ly-phat-trien-xa-hoi-nhung-van-de-dat-ra-cho-phat-trien-xa-hoi-so-theo-tinh-than-dai-hoi-xii 
(2) Nguyễn Văn Thôi: “Xu thế đổi mới quản trị công trên thế giới và vấn đề hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.003, tháng 12-2022, tr. 76
(3) Hồ Sĩ Quý: “Một số vấn đề về Dân chủ, Độc tài và Phát triển”. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, tr. 44
(4) Nguyễn Anh Tuấn (Chủ biên): Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2018, tr. 21
(5) Nguyễn Văn Thôi: “Xu thế đổi mới quản trị công trên thế giới và vấn đề hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng”, Tcđd, tr. 75
(6) Nguyễn Anh Tuấn (Chủ biên): Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2018, tr. 56
(7) Xem: Trần Thị Minh Tuyết: “Nhận thức về dân chủ và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 23-1-2020, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3030-nhan-thuc-ve-dan-chu-va-qua-trinh-dan-chu-hoa-o-viet-nam-trong-thoi-ky-doi-moi-thuc-trang-va-giai-phap.html
(8) Xem: Lê Hải: “Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội đặt trong tổng thể việc nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn của Đảng ta”, Tạp chí Cộng sản, ngày 3-8-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/giai-quyet-moi-quan-he-giua-thuc-hanh-dan-chu-va-tang-cuong-phap-che-bao-dam-ky-cuong-xa-hoi-dat-trong-tong-the-viec-nam-vung-va-xu-ly-tot-cac-moi-qua
(9) Đặng Đình Tân (Chủ biên): “Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2006, tr. 213
(10) Xem: Trần Thị Minh Tuyết: “Nhận thức về dân chủ và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp”, Tcđd
(11) Xem: Nguyễn Thị Tố Uyên: “Vai trò của các tổ chức xã hội và thực trạng quy định pháp luật về tổ chức xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 17-10 -2016, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/1673-vai-tro-cua-cac-to-chuc-xa-hoi-va-thuc-trang-quy-dinh-phap-luat-ve-to-chuc-xa-hoi-o-viet-nam.html