Phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới
TCCS - Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ chính trị ngày càng nặng nề, khó khăn và phức tạp hơn, việc xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ nữ nói riêng đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ, góp phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, càng đặt ra cấp thiết.
Quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác phát triển cán bộ nữ. Tại buổi nói chuyện ở lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Người đã nghiêm túc phê bình: “Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai”(1). Bác rất coi trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nữ, bởi họ đóng góp công sức to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, Người khẳng định, tham gia công việc xã hội là quyền của phụ nữ. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người đã biểu dương tinh thần chiến đấu, hy sinh của phụ nữ Việt Nam cho sự nghiệp cách mạng và căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm, chăm sóc phụ nữ thực hiện bình đẳng giới: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(2).
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ nữ. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 153-NQ/TW, ngày 10-1-1967, về “Công tác cán bộ nữ”. Nghị quyết khẳng định: “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của Nhà nước, của xã hội, song lực lượng phụ nữ trong đó đội ngũ xung kích là lực lượng cán bộ nữ ở tất cả các lĩnh vực phải phát huy vai trò chủ động của mình; phong trào phụ nữ càng phát triển thì đội ngũ cán bộ phụ nữ càng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, và ngược lại, sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác động lớn đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ… Các cấp, các ngành cần nhận rõ vị trí và vai trò vô cùng trọng yếu của lực lượng phụ nữ, nhận rõ trách nhiệm lớn lao của phụ nữ trên các lĩnh vực công tác cũng như nhận rõ vị trí và vai trò của đội ngũ cán bộ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung, trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ nói riêng”(3). Điều này cho thấy, các chủ trương, đường lối của Đảng ta rất chú trọng đến công tác phát triển cán bộ nữ, góp phần hướng đến xã hội bình đẳng nam nữ.
Từ năm 1980, Nhà nước Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW). Việt Nam phê chuẩn và thực hiện các điều khoản của Công ước CEDAW, như định kỳ đệ trình các báo cáo quốc gia về những kết quả thực hiện CEDAW, trong đó có quy định về sự tham gia về chính trị và dân sự của phụ nữ (Điều 1); tham gia các tổ chức chính phủ, hiệp hội phi chính phủ, liên quan đến đời sống công cộng, chính trị của đất nước (Điều 7); Nhà nước bảo đảm các cơ hội phụ nữ đại diện cho chính phủ trên các diễn đàn quốc tế, tham gia công việc ở các tổ chức quốc tế (Điều 8). Đặc biệt, Công ước này khuyến cáo các nhà nước cần thiết áp dụng các biện pháp đặc biệt, tạm thời, nhằm cải thiện vị thế, vai trò tham gia của phụ nữ trong xã hội, khắc phục sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình (Điều 4). Việc tham gia ký kết này nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ, trẻ em gái, đặc biệt là những điều khoản, mục tiêu về phụ nữ tham chính. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực hành động thực hiện chủ trương bình đẳng giới, kiên quyết chống lại sự kỳ thị và phân biệt giới.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định đúng vị trí, vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ nữ nhằm phát huy sức mạnh của họ. Ngày 16-5-1994, Đảng ta ban hành Chỉ thị số 37-CT/TW, “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” và một số chủ trương, chính sách khác có liên quan đến công tác cán bộ nữ nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Chỉ thị số 37-CT/TW cũng xác định tiếp tục quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ bằng giải pháp xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng.
Ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW, “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết nhấn mạnh, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Nghị quyết đề ra các chỉ tiêu định hướng cho hệ thống chính trị các cấp: Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp đạt từ 35% - 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đề ra mục tiêu đến năm 2030: Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” xác định: Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Kế thừa quan điểm, tinh thần của các đại hội trước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh chủ trương: “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”(4).
Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ đặt ra hiện nay
Công tác cán bộ nữ ở Việt Nam trong những năm gần đây đạt nhiều thành tựu quan trọng. Trên thực tế, việc xây dựng, thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ đã được chú trọng, có nhiều chương trình đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực, gắn với quy hoạch. Dự án “Nâng cao năng lực lãnh đạo cho phụ nữ trong khu vực nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” (EOWP) do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Ngoại giao phối hợp thực hiện, nhằm mục tiêu hỗ trợ nâng cao năng lực cho phụ nữ làm việc trong các cơ quan nhà nước, phát huy vai trò lãnh đạo của các cán bộ nữ tài năng trong khu vực công của Việt Nam, đã góp phần phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân lực nữ cho phát triển kinh tế tri thức, thực hiện cử tuyển đào tạo cán bộ nữ trong đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo và trong các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ chưa cao. Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện trong hoạt động nghiên cứu khoa học, trong công tác lãnh đạo, quản lý; ưu tiên tuyển chọn cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học; chăm lo bồi dưỡng, phát triển tài năng nữ giới.
Kết quả thực hiện bình đẳng giới của nước ta được xếp hạng cao hơn so với nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển và thu nhập. Việt Nam được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới, trong đó có nỗ lực tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, từng bước xóa bỏ khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Việt Nam là quốc gia có số lượng nữ đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao trong khu vực (nhiệm kỳ khóa XIII đạt 24,4%; nhiệm kỳ khóa XIV đạt 26,8%; nhiệm kỳ khóa XV đạt 30.26%) và đứng thứ 51 trên thế giới, thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội(5). Ở nhiệm kỳ 2021 - 2026, có 151/499 đại biểu Quốc hội là nữ. Đặc biệt, đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội khóa XIV là nữ chính khách Việt Nam đầu tiên giữ cương vị này.
Nhờ công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ được quan tâm cùng sự nỗ lực vươn lên của chính đội ngũ cán bộ nữ, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ không ngừng gia tăng. Nhiều cán bộ nữ được tín nhiệm giữ những trọng trách và qua thực tiễn công tác, đã khẳng định và phát huy được vai trò của mình trong các cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp ngày càng nhiều(6).
Rõ ràng, ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong việc tham gia chính trị - vốn vẫn được coi là “địa hạt” nam giới có nhiều ưu thế. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng khá lớn trong công tác cán bộ nữ. Cụ thể là:
Thứ nhất, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia vào các vị trí cấp chiến lược còn thấp. Trong bối cảnh hiện nay, phụ nữ Việt Nam đã tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo, quản lý và bước đầu được ghi nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực cán bộ nữ trong hệ thống chính trị thì tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ vẫn còn thấp so với đội ngũ lao động nữ và so với yêu cầu(7).
Thứ hai, có sự bất cập giữa yêu cầu thực hiện tốt công tác cán bộ nữ với các điều kiện kinh tế - văn hóa và xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách, hệ thống các văn bản pháp luật thúc đẩy bình đẳng giới trong hoạt động chính trị. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chính sách đó thì việc bảo đảm các điều kiện về kinh tế, văn hóa - xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ phát huy vai trò của mình là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các cấp, các ngành trong thời kỳ đẩy mạnh quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, mâu thuẫn giữa việc thực hiện tốt chính sách về cán bộ nữ với việc bảo đảm các điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội vẫn đang là vấn đề gặp nhiều khó khăn đối với các cấp, các ngành hiện nay, chẳng hạn như tình trạng phụ nữ không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp… đã ảnh hưởng đến cơ hội học tập, nâng cao trình độ để có thể tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý. Do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, miền trong cả nước nên vẫn chưa có bình đẳng thực sự trong thụ hưởng giáo dục; ở miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn tình trạng thiếu giáo viên, cơ sở vật chất thiếu thốn; một bộ phận phụ nữ sống ở nông thôn, phụ nữ là người dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều thiệt thòi do thiếu các điều kiện để tiếp cận các chính sách và thụ hưởng thành quả do sự phát triển kinh tế - xã hội mang lại. Vì vậy, rất cần có những chính sách để phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, từ đó bảo đảm những điều kiện thuận lợi hơn để người phụ nữ có cơ hội ngang bằng với nam giới trong việc tham gia các hoạt động chính trị, thông qua các chế độ tiền lương, đãi ngộ và các nguồn hỗ trợ khác.
Thứ ba, định kiến giới đối với phụ nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý vẫn còn khắt khe. Mặc dù sự định kiến giới theo quan niệm truyền thống đã giảm bớt, chuyển biến theo chiều hướng ngày càng tích cực hơn, tuy nhiên, trong nhận thức của nhiều nhóm xã hội về vai trò, vị thế chính trị của phụ nữ vẫn còn có định kiến và khắt khe hơn nhiều so với nam giới. Chính điều này là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng và sự thăng tiến của phụ nữ trong các lĩnh vực hoạt động chính trị - xã hội.
Một số định hướng nhằm thực hiện tốt công tác cán bộ nữ trong thời gian tới
Một là, tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030, nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia, thụ hưởng thành quả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước; đặc biệt là, cần tập trung thực hiện 6 mục tiêu được đề ra trong Chiến lược(8).
Hai là, các địa phương cần chú trọng hơn nữa công tác quy hoạch nguồn cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý. Tỷ lệ cán bộ nữ tham chính vẫn vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về vị trí đảm nhận. Trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị và sự trải nghiệm của phụ nữ qua thực tiễn hoạt động chính trị còn hạn chế so với nhóm nam giới. Bởi vậy, cần xác định, việc tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý là trách nhiệm và công việc quan trọng, thường xuyên của Đảng và Nhà nước, các ban, bộ, ngành, các địa phương, nhất là ở cấp cơ sở để tránh sự thiếu hụt về số lượng cán bộ nữ. Đồng thời, quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ trong tổng thể chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ vào sự phát triển của đất nước; đồng thời, phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt nhất vai trò người công dân, người lao động, người vợ, người mẹ,…
Ba là, cần nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp hội liên hiệp phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Các cấp hội cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn nội dung hoạt động; bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhiệm vụ của địa phương, lựa chọn hoạt động thực sự phù hợp với điều kiện tổ chức hội và của hội viên, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, nâng cao trình độ, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động chính trị - xã hội…
Như vậy, trước những đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, để phụ nữ có điều kiện phát huy năng lực, tự tin tham gia và thực hiện tốt vai trò quan trọng của mình trên tất cả các lĩnh vực, công tác cán bộ nữ cần đổi mới và đột phá hơn nữa. Phụ nữ Việt Nam hiện đại khi nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cùng với những nỗ lực của bản thân sẽ có cơ hội đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước, khẳng định hình ảnh, phẩm chất đạo đức cao quý “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”./.
-----------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 275
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 617
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t. 28, tr. 24 - 25
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 169
(5) Lê Sơn: “Thông qua Nghị quyết xác nhận tư cách Đại biểu Quốc hội khóa XV với 499 người trúng cử”, Báo Điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn/thong-qua-nghi-quyet-xac-nhan-tu-cach-dbqh-khoa-XV-voi-499-nguoi-trung-cu-102295878.htm, ngày 12-7-2021
(6) Nhiệm kỳ Đại hội VIII của Đảng có 1 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị, nhiệm kỳ Đại hội XII có 3 đồng chí, nhiệm kỳ Đại hội XIII có 2 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Từ Đại hội VIII của Đảng bắt đầu có 1 đồng chí nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương và con số này qua các khóa X, XI, XII, XIII với các tỷ lệ tương ứng là 7,5%, 8,13%, 10% và 9,5%. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương qua 5 nhiệm kỳ gần đây tăng từ 11,3% lên 16% (Nhiệm kỳ 1995 - 2000 là 11,3%; nhiệm kỳ 2000 - 2005 là 11,32%; nhiệm kỳ 2005 - 2010 là 11,75%; nhiệm kỳ 2010 - 2015 là 11,42%, nhiệm kỳ 2015 - 2020 là 13,3% và nhiệm kỳ 2020 - 2025 là 16%)
(7) Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa X đạt 26,2%, khóa XI đạt 27,3%, khóa XII đạt 25,7%, khóa XIII đạt 24,4%, khóa XIV đạt 26,8%, khóa XV đạt 30,26%
(8) Trong lĩnh vực chính trị, phấn đấu đến: Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Trong lĩnh vực kinh tế, tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030; giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030…
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện pháp luật và thực thi công vụ  (18/10/2021)
Động lực để nữ công nhân, viên chức, lao động phấn đấu  (06/10/2021)
Phụ nữ Việt Nam khơi dậy khát vọng phát triển, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng  (11/07/2021)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển